Đồng thời phân bổ giúp phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế, bởi vì người tiết kiệm thường không đồng thời là những người có cơ hội đầu tư sinh lời cao. Thông qua tín dụng ngân hàng mà vốn từ người thiếu các dự án đầu tư hiệu quả chuyển tới những người có các dự án hiệu quả hơn nhưng thiếu vốn. Người đi vay và ngân hàng đều nỗ lực sử dụng vốn có hiệu quả để tránh không trả được nợ dẫn đến bị phát mãi tài sản, giải thể phá sản. Kết quả là nền kinh tế tăng trưởng, tạo công ăn việc làm và năng suất lao động cao hơn.
Thứ hai, là công cụ điều tiết kinh tế xã hội của nhà nước. Thông qua việc đầu tư vốn tín dụng vào những nghành nghề, khu vực kinh tế trọng điểm sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề, khu vực kinh tế đó, hình thành nên cơ cấu kinh tế hiệu quả. Trong những thời kỳ kinh tế khó khăn, nhà nước hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa vay ngân hàng. Ở Việt Nam, tín dụng ngân hàng là kênh quan trọng truyền tải vốn tài trợ của nhà nước đến nông nghiệp, nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị, xã hội. Thông qua công cụ lãi suất, tín dụng ngân hàng góp phần lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền.
2.1.3.2. Đối với khách hàng
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu về số lượng và chất lượng vốn cho khách hàng. So với tín dụng thương mại và tín dụng cá nhân nặng lãi thì tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng với khách hàng. Với các ưu điểm như không bị hạn chế về thời hạn vay, về mục đích sử dụng, nhanh chóng dễ tiếp cận và có khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn lớn nên tín dụng ngân hàng thỏa mãn được nhu cầu đa dạng của khách hàng. Qua đó, tín dụng ngân hàng giúp nhà đầu tư kịp thời tận dụng được những cơ hội kinh doanh, giúp các gia đình nâng cao chất lượng cuộc sống.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp. So với việc sử dụng vốn chủ sở hữu thì tín dụng ngân hàng ràng buộc trách nhiệm khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi trong thời hạn nhất định như thỏa thuận. Do đó, buộc khách hàng phải nỗ lực, tận dụng hết khả năng của
mình để sử dụng vốn vay hiệu quả nhằm đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố tác động đến tăng trưởng tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 1
- Các yếu tố tác động đến tăng trưởng tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2
- Các Yếu Tố Cơ Bản Tác Động Đến Tăng Trưởng Tín Dụng
- Tỷ Lệ Tăng Trưởng Tín Dụng Của Các Nhtm Và Tăng Trưởng Gdp Của Việt Nam
- Tỷ Lệ Ldr Và Tỷ Lệ Tài Sản Thanh Khoản/tổng Tài Sản (%)
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Thứ ba, khi được ngân hàng cho vay vốn hàm ý khách hàng đã được chọn lọc và có chất lượng tốt. Điều này làm cho thương hiệu của khách hàng trên thương trường được tăng cường, tăng được uy tín và giúp khách hàng mở rộng được kinh doanh.
2.1.3.3. Đối với ngân hàng
Thứ nhất, đem lại lợi nhuận quan trọng nhất cho ngân hàng. Tín dụng là hoạt động truyền thống, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có (khoảng 69%) và mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng (70 đến 90%). Mặc dù tỷ tọng hoạt động tín dụng đang có xu hướng giảm trên thị trường tài chính, nhưng tín dụng ngân hàng vẫn luôn là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng.
Thứ hai, thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng mở rộng được các loại hình dịch vụ khác như thanh toán, thu hút tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn… Từ đó đa đạng hóa hoạt động kinh doanh, tăng lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro khi ngân hàng trung ương thắt chặt tiền tệ hoặc khi gặp rủi ro tín dụng.
2.2. TỔNG QUAN CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
2.2.1. KHÁI NIỆM VỀ TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG
Tăng trưởng tín dụng là việc các NHTM sử dụng các chính sách nhằm tăng nguồn vốn huy động, đáp ứng cho việc cấp tín dụng, chiết khấu, đầu tư vào những đối tượng là các tổ chức kinh tế, cá nhân… có nhu cầu vay vốn, từng bước nâng cao lợi nhuận, thị phần và thương hiệu trên thị trường.
Khi quy mô tài sản tăng, thì tín dụng cũng tăng theo tương ứng. Vì tín dụng là bộ phận sinh lời chủ yếu, nên hầu hết các ngân hàng đều đưa ra kế hoạch tăng trưởng tỷ lệ này.
Một số chỉ tiêu đo lường tăng trưởng:
- Tốc độ tăng huy động vốn: phản ánh quy mô và tốc độ huy động của NHTM. Nếu kỳ sau cao hơn kỳ trước, tốc độ huy động tăng, quy mô hoạt động mở rộng; ngược lại là giảm tốc độ huy động, quy mô bị thu hẹp.
Tốc độ tăng huy động vốn =(Vốn huy động kỳ này – Vốn huy
động kỳ trước)/Vốn huy động kỳ trước
- Tốc độ tăng dư nợ tín dụng: phản ánh tốc độ tăng dư nợ của NHTM. Nếu dư nợ kỳ sau cao hơn kỳ trước, NHTM đã giải quyết nhu cầu vốn cho nền kinh tế, phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế và ngượclại.
Tốc độ tăng dư nợ tín dụng =(Dư nợ tín dụng kỳ này–Dư nợ tín
dụng kỳ trước)/ Dư nợ tín dụng kỳ trước
- Cơ cấu tín dụng: phản ánh tỷ lệ cấp tín dụng theo đối tượng, kì hạn hoặc ngành nghề. Cơ cấu tín dụng giúp ngân hàng tính toán được các chỉ tiêu đảm bảo an toàn về tín dụng, thanh khoản hoặc điều chỉnh hướng cho vay theo chiến lược phát triển của ngân hàng hay chính sách điều tiết củaNHNN.
Tỷ lệ cơ cấu tín dụng = (Dư nợ tín dụng theo đối tượng/kì
hạn/ngành nghề)/Tổng dư nợ tín dụng
- Việc tăng trưởng huy động vốn và dư nợ cho vay phải được kiểm soát trong từng giai đoạn cụ thể, thông qua chính sách tiền tệ đã đề ra. Một sự tăng trưởng tín dụng quá mức so với yêu cầu của nền kinh tế sẽ là nguy cơ tiềm ẩn đối với chất lượng tín dụng, làm phát sinh nợ xấu, nợ khó đòi, nợ mất khả năng thu hồi, …
2.2.1. KHÁI QUÁT MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG
Imran and Nishatm (2013) kiểm tra các yếu tố giải thích tín dụng ngân hàng cung cấp cho các công ty ở Pakistan trong giai đoạn 1971-2008. Nghiên cứu tập trung vào phía cung (các yếu tố liên quan đến việc phục vụ của tiền của ngân hàng) thông qua sử dụng các tỷ lệ tăng trưởng trong tín dụng ngân hàng cung cấp cho khu vực tư nhân như là một biến phụ thuộc, trong khi các biến nghiên cứu
độc lập bao gồm tỷ lệ tăng trưởng trong các khoản nợ nước ngoài, tăng trưởng tiền gửi trong nước, lãi suất của thị trường, nguồn cung tiền như là tỷ lệ phần trăm của GDP, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, lạm phát và tỷ giá. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các khoản nợ nước ngoài, tiền gửi tại địa phương, sự tăng trưởng kinh tế, tỷ giá hối đoái, và các điều kiện ở tiền tệ có tác động đáng kể về kích thước của tín dụng ngân hàng cung cấp cho khu vực tư nhân ở Pakistan, đặc biệt là trong dài hạn. Kết quả cũng cho thấy tỷ lệ lạm phát và lãi suất của thị trường không ảnh hưởng đến tín dụng cấp cho khu vực tư nhân. Trong ngắn hạn, nghiên cứu cho thấy các tín dụng cấp cho khu vực tư nhân địa phương không ảnh hưởng. Hơn nữa, kết quả cho thấy sức khỏe tài chính và thanh khoản trong các ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định tín dụng, và các điều kiện kinh tế tốt khiến các ngân hàng phải tăng khối lượng tín dụng cung cấp cho khu vực tư nhân.
Sharma and Gounder (2012) : kiểm tra sự thay đổi trong tín dụng ngân hàng cung cấp cho khu vực tư nhân trong sáu nền kinh tế ở Nam Thái Bình Dương trong giai đoạn 1982-2009. Nghiên cứu sử dụng tín dụng cấp cho khu vực tư nhân như là một biến phụ thuộc, trong khi các biến độc lập bao gồm tỷ lệ lãi suất trung bình cho các khoản vay, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ tiền gửi trên GDP, quy mô của các tài sản của đầu ra các ngân hàng, một biến giả phản ánh sự tồn tại của một thị trường tài chính, và GDP. Kết quả cho thấy mức lãi suất trung bình cao hơn các khoản cho vay và tỷ lệ lạm phát cao hơn có thể có tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng tín dụng, trong khi kích thước của các khoản tiền gửi và tài sản đã có một tác động tích cực đến tăng trưởng tín dụng. Kết quả cũng cho thấy sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ dẫn đến tốc độ tăng trưởng cao hơn trong tín dụng.
Chernykh and Theodossiou (2011) đã tiến hành một nghiên cứu được áp dụng cho một mẫu các ngân hàng Nga; đã tìm thấy rằng trung bình các ngân hàng này chỉ cấp tín dụng 50% tổng tài sản của các ngân hàng đối các khoản cho vay dài hạn lĩnh vực kinh doanh, một sự khác biệt đáng kể trong tỷ lệ của một ngân hàng khác. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng khả năng của ngân hàng tăng khối lượng
cho vay thương mại phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau, bao gồm cả vốn, khối lượng và tính sẵn có của các khoản nợ dài hạn, trong khi quyền sở hữu của ngân hàng không có ảnh hưởng quy mô của các khoản vay. Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng các ngân hàng ngần ngại trong việc cung cấp các khoản vay thương mại nhiều hơn ba năm. Ngoài ra, nghiên cứu báo cáo rằng các ngân hàng có một mức độ thấp của vốn cho vay dài hạn ít hơn, và các ngân hàng hoạt động trong khu vực có khả năng cạnh tranh cao ngần ngại trong việc cấp các khoản vay dài hạn. Nghiên cứu này đã chỉ ra một loạt các trở ngại phải đối mặt với các ngân hàng trong việc cung cấp các khoản vay dài hạn cho các công ty, bao gồm cả bảo vệ kém về các quyền của chủ nợ, và mức độ tin cậy thấp của khách hàng vay.
Olokoyo (2011) đã thảo luận về các yếu tố quyết định cho vay ngân hàng cho các ngân hàng thương mại tại Nigeria trong giai đoạn 1980-2005, và hiệu quả của chúng trong việc ảnh hưởng đến hành vi của ngân hàng cho vay. Các mẫu nghiên cứu bao gồm các khoản cho vay của các ngân hàng Nigeria cấp như là một biến phụ thuộc, trong khi các biến độc lập bao gồm kích thước của các khoản tiền gửi, kích thước của danh mục đầu tư, lãi suất cho vay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ thanh khoản . Thông qua việc sử dụng phân tích hồi quy, kết quả cho thấy ý nghĩa thống kê của các mô hình nghiên cứu và các biến độc lập là như mong đợi. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tiền gửi của các ngân hàng thương mại có tác động lớn nhất trên hành vi cho vay của các ngân hàng Nigeria. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đề nghị các nhu cầu mà các ngân hàng thương mại thu hút tiền gửi vì điều này sẽ cải thiện hiệu suất cho vay ngân hàng.
Guo and Stepanyan (2011) đã tìm thấy sự thay đổi trong tín dụng ngân hàng trên một phạm vi rộng lớn của các nền kinh tế đang nổi lên trong thập kỷ qua. Nghiên cứu sử dụng tín dụng cấp cho khu vực tư nhân là biến phụ thuộc khi các biến độc lập bao gồm các khoản nợ nước ngoài của các ngân hàng, khối lượng tiền gửi trong nước, tỷ lệ lạm phát, GDP thực, lãi suất tiền gửi, tỷ giá hối đoái, nợ xấu, và cung tiền. Các kết quả cũng chỉ ra rằng các nguồn tài chính trong và ngoài nước góp phần tích cực vào việc tăng trưởng tín dụng của ngân hàng. Nghiên cứu
cũng phát hiện ra rằng sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ dẫn đến sự gia tăng trong tỷ lệ tăng trưởng tín dụng và lạm phát, và rằng các chính sách tiền tệ mở rộng tại địa phương và trên toàn cầu dẫn đến sự gia tăng khối lượng tín dụng và như vậy tăng cường lĩnh vực ngân hàng.
Berrospide and Edge (2010) đã chỉ ra rằng tác động của vốn ngân hàng về cho vay là một yếu tố quan trọng để xác định mối quan hệ giữa các điều kiện tài chính và các hoạt động thực tế của các ngân hàng. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích hồi quy chung để kiểm tra việc cho vay của các ngân hàng lớn, và tìm thấy một tác động nhẹ của vốn vào quy mô của các khoản vay ngân hàng. While Bakker and Gulde (2010) đã tìm thấy các yếu tố bên ngoài là nguyên nhân chính cho sự bùng nổ tín dụng của các thành viên mới của Liên minh châu Âu.
Aisen and Franken (2010) chỉ ra rằng tỷ lệ tăng trưởng tín dụng trong ngân hàng trước khi cuộc khủng hoảng tài chính cao hơn sau cuộc khủng hoảng tài chính thông qua các ứng dụng trên một mẫu của 80 quốc gia. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng những biến động mang tính chu kỳ trong chính sách tiền tệ và thanh khoản cho các ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm của tín dụng ngân hàng cung cấp sau khi cuộc khủng hoảng tài chính, trong đó kêu gọi sự cần thiết rằng nước này nên theo cơ cấu kinh tế và tiền tệ kèm theo các chính sách tài chính để đối mặt với những biến động. Kết quả cũng cho thấy rằng các nước đã phản ứng khác nhau đối với cuộc khủng hoảng tài chính vì sự đa dạng về đặc điểm cấu trúc của họ, chẳng hạn như độ sâu tài chính và hội nhập.
Takáts (2010) nghiên cứu hành vi cho vay ngân hàng và thấy rằng trong cuộc khủng hoảng tài chính, các ngân hàng cho vay đã giảm mạnh qua biên giới. Bằng cách dựa vào các dữ liệu của một trong hai mươi nền kinh tế mới nổi, nghiên cứu cho thấy rằng trong cuộc khủng hoảng tài chính, các yếu tố cung và cầu góp phần giảm cho vay ngân hàng và các cú sốc cung là yếu tố quyết định chính của sự suy giảm cho vay qua biên giới của các thị trường mới nổi trong thời khủng hoảng.
Kamil and Rai (2010) cho thấy rằng các nguồn kinh phí (bên ngoài so với nội bộ) trở nên quan trọng trong cuộc khủng hoảng của sự tăng trưởng tín dụng; các nước mà dựa nhiều hơn vào các nguồn tài chính bên ngoài bị nhiều hơn những người khác. Barajas et al. (2010) cho thấy các yếu tố nội bộ trong ngân hàng như vốn và chất lượng của sự tài trợ vay giải thích sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng tín dụng trên tất cả các quốc gia Trung Đông và Bắc Phi. Grodzicki et al. (2010) đã kiểm tra các điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của một kênh để thực hiện những rủi ro của chính sách tiền tệ trong khu vực ngân hàng Ba Lan bằng cách kiểm tra xem liệu các chính sách cho vay của mỗi ngân hàng có ảnh hưởng đến việc cung cấp tiền cho vay. Nghiên cứu này dựa trên số liệu điều tra của cho vay ngân hàng Ba Lan với điều chỉnh các yếu tố liên quan đến phía cầu. Ngoài ra, nghiên cứu cho thấy rằng các chính sách cho vay ngân hàng cá nhân của ngân hàng tạo thành một động lực quan trọng cho sự tăng trưởng của tín dụng; Tuy nhiên, những hạn chế về tài chính (vốn và thanh khoản) là ít quan trọng hơn trong việc xác định sự tăng trưởng của tín dụng. Nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng các chính sách cho vay của ngân hàng được chuyển đến một mức độ lớn đối với sự nhận thức về rủi ro của các ngân hàng. Hơn nữa, nghiên cứu cho thấy hiệu quả của việc truyền các chính sách tiền tệ có thể yếu trong nền kinh tế mở nhỏ như Ba Lan, so với các nền kinh tế phát triển lớn.
Ezirim (2005) xác nhận rằng những quyết định cho vay của ngân hàng là đối tượng với rất nhiều rủi ro, đòi hỏi rất nhiều sự cẩn thận và khéo léo trong lĩnh vực này của hoạt động ngân hàng. Ông chỉ ra rằng sự thành công tất cả các hoạt động cho vay phụ thuộc phần lớn vào những phân tích tín dụng để thực hiện một phân tích tốt của tín dụng, ngoài chất lượng của thể hiện và cách xây dựng và lập báo cáo.
Chodechai (2004) cho thấy các quyết định cho vay của ngân hàng liên quan đến một sự kết hợp của các yếu tố, quan trọng nhất trong số đó là: lãi suất, khối lượng cho vay, và việc xác định tài sản thế chấp. Ông cũng cho rằng các ngân hàng nên thận trọng khi đưa ra các quyết định về giá cả cho vay; các ngân
hàng không thể áp đặt mức lãi suất rất thấp cho vay vì lãi sẽ không đủ để trang trải chi phí của các khoản tiền gửi và chi phí chung và nợ không hiệu quả; Hơn nữa, áp đặt lãi suất vay cao có thể đẩy người vay không thanh toán.
Natalia T. Tamirisa và Deniz O. Igan (2007) đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng tín dụng của NHTM tại một số quốc gia có nền kinh tế mới nổi Châu Âu. Trong phần nghiên cứu của mình, Natalia T. Tamirisa và Deniz O. Igan đã nghiên cứu và chứng minh có một số nhân tố ảnh hưởng khá rõ ràng tới tăng trưởng tín dụng như tốc độ tăng trưởng kinh tế thể hiện qua GDP, tính chất sở hữu của ngân hàng (là ngân hàng quốc gia hay không), khả năng thanh khoản của NHTM và chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi.
Salas và Saurina (2002), đã kết hợp các biến kinh tế vĩ mô và vi mô để nghiên cứu sự tác động đến nợ xấu của ngân hàng Tây Ban Nha trong giai đoạn 1985-1997. Kết luận yếu tố nội tại của ngân hàng có thể sử dụng như là chỉ số cảnh báo sớm cho những thay đổi trong tỷ lệ nợ xấu trong tương lai. Kết quả cho thấy ngân hàng có quy mô lớn hơn sẽ có nợ xấu ít hơn, tăng trưởng tín dụng nhiều sẽ dẫn tới nợ xấu nhiều hơn. Ngoài ra, còn phát hiện mối quan hệ ngược chiều giữa tăng trưởng GDP và tỷ lệ nợ xấu.
Boudriga et al. (2009), nghiên cứu các yếu tố từ phía ngân hàng, môi trường kinh doanh và môi trường thể chế của 46 ngân hàng tại 12 Quốc gia của vùng Trung Đông và Bắc Phi: trong giai đoạn 2002-2006. Kết quả cho thấy sự tham gia của nước ngoài đến từ các nước phát triển sẽ làm giảm nợ xấu. Tuy nhiên, không có bằng chứng cho thấy các ngân hàng quốc doanh gặp nợ xấu cao hơn. Quy mô vốn lớn thì nợ xấu lớn, tăng trưởng tín dụng cao thì giảm nợ xấu. Trong môi trường kinh doanh chất lượng thông tin được chia sẻ giữa ngân hàng và khách hàng tỷ lệ nghịch với nợ xấu, tăng cường chất lượng của môi trường thể chế sẽ làm giảm nợ xấu.
Tehulu và cộng sự (2014), nghiên cứu được thực hiện để kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại Ethiopia. Phương pháp