Cơ Quan Giám Sát Thị Trường Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ Việt Nam



đáp ứng những nguyên tắc nhất định. Đối với lĩnh vực bảo hiểm có thanh tra chuyên ngành về bảo hiểm.

Bên cạnh các văn bản qui phạm pháp luật, Việt Nam đang dần từng bước hướng tới việc áp dụng các nguyên tắc, chuẩn mực giám sát bảo hiểm do IAIS ban hành. Hiện nay, nhiều nước đã thừa nhận và tuân thủ theo nguyên tắc của IAIS. Tuy nhiên ở Việt Nam việc áp dụng các nguyên tắc giám sát bảo hiểm cũng mới chỉ dừng ở mức độ nhất định. Các qui định của nguyên tắc là những qui định mang tính hướng dẫn để vận dụng xây dựng các văn bản pháp quy.

Theo báo cáo đánh giá của chuyên gia IMF về việc thực hiện 26 nguyên tắc và chuẩn mực giám sát bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm quốc tế (IAIS) ban hành. Việt Nam tuân thủ hoàn toàn: 0 chuẩn mực; Tuân thủ tương đối: 3 chuẩn mực (ICP 4, ICP 10, ICP 17); tuân thủ một phần 21 chuẩn mực; không tuân thủ: 2 chuẩn mực (ICP 21, ICP 23)[15]. Cũng phải thấy rằng, các nguyên tắc, chuẩn mực giám sát do IAIS ban hành áp dụng chủ yếu cho các nước thực hiện giám sát thị trường theo phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro. Do đó, việc đánh giá của IAIS đối với Việt Nam cũng chỉ mang tính tương đối vì Việt Nam đang thực hiện giám sát theo phương thức giám sát tuân thủ.

Có thể nói, hệ thống văn bản pháp lý bao gồm cả các văn bản làm cơ sở thực hiện hoạt động giám sát và hệ thống văn bản trực tiếp điều chỉnh hoạt động giám sát ngày càng hoàn thiện, tạo ra một hành lang pháp lý rõ ràng cho hoạt động giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Đặc biệt trong vòng 5 năm (2008- 2013), nhiều cải cách quan trọng trong công tác giám sát thị trường đã được triển khai nhằm tăng cường công tác giám sát lĩnh vực bảo hiểm. Tuy nhiên cũng phải nhận thấy rằng các qui định trong các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động giám sát bảo hiểm cũng còn những chỗ trống, những điểm còn mâu thuẫn, chưa đồng bộ giữa các văn bản pháp luật. Những hạn chế này đã ảnh hưởng đến thực trạng và kết quả phát triển của thị trường bảo hiểm cũng như hiệu quả của hoạt động giám sát thị trường bảo hiểm. Luận án sẽ đi vào phân tích những điểm còn hạn chế của hệ thống văn bản pháp luật trong phần đánh giá thực trạng hoạt động giám sát thị trường bảo hiểm.

2.2.1.2. Phương thức, quy trình giám sát

a. Phương thức giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ

Trong Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010 qui định hoạt động giám sát thị trường bảo hiểm “Giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm


thông qua hoạt động nghiệp vụ, tình hình tài chính, quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và việc chấp hành pháp luật của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; áp dụng các biện pháp cần thiết để doanh nghiệp bảo hiểm bảo đảm các yêu cầu về tài chính và thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm.”[14]

Ở Việt Nam, cơ quan giám sát tập trung nguồn lực giám sát vào giám sát tài chính (trên cơ sở phân tích tình hình tài chính, phân tích chỉ tiêu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp), và giám sát hoạt động nghiệp vụ (quản trị doanh nghiệp, qui trình nghiệp vụ, quản trị rủi ro,...) trên cơ sở các qui định của pháp luật và tính tuân thủ pháp luật của các DNBH. Cán bộ quản lý sẽ dựa trên số liệu báo cáo của doanh nghiệp để đối chiếu với các qui định của pháp luật, phát hiện những sai sót của doanh nghiệp để có khuyến cáo và đưa ra các biện pháp điều chỉnh nếu có sự khác biệt giữa các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh và các tiêu chí giám sát.

Thực hiện giám sát theo phương thức tuân thủ nên cơ quan giám sát thường thực hiện xử lý thông tin dữ liệu quá khứ. Nhiều khi các biện pháp xử lý không có hiệu quả cao vì các rủi ro đã xảy ra. Hoặc khi phát hiện các rủi ro thì trên thực tế đã thay đổi rất nhiều. Khi phát hiện những hành vi của doanh nghiệp có thể gây ảnh hưởng tới tình hình tài chính của DNBH hay thị trường nhưng không xử lý được vì pháp luật chưa điều chỉnh. Khả năng dự báo cũng như đưa ra những cảnh báo sớm đối với thị trường còn hạn chế. Mức dự báo và cảnh báo không cao.

b. Qui trình giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam

Quá trình giám sát được hiện bởi qui trình “Giám sát từ xa” và “Giám sát tại chỗ”.

(*) Giám sát từ xa

Năm 2004, Vụ Bảo hiểm (nay là Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm) đã ban hành quy trình nội bộ về giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ đối với các DNBH, từ đó đến nay các phòng nghiệp vụ vẫn thực hiện các bước theo qui trình đó trong hoạt động giám sát của mình, bao gồm các bước cơ bản sau:

Bước 1: Thu thập thông tin, bao gồm các báo cáo tháng, quý, năm, các nguồn tin khác từ thị trường. Các DNBH thực hiện chế độ báo cáo của các DNBH, nộp cho Cục QLBH, bao gồm:

- Báo cáo kết quả hoạt động tháng (tháng)

- Báo cáo doanh thu phí bảo hiểm (quý, năm)

- Báo cáo các chỉ tiêu kinh tế(quý, năm)

- Báo cáo bồi thường bảo hiểm(quý, năm)



- Báo cáo chi tiết trích lập dự phòng nghiệp vụ(quý, năm)

- Báo cáo tổng hợp dự phòng nghiệp vụ

- Báo cáo hoạt động đầu tư từ nguồn vốn chủ sở hữu(quý, năm)

- Báo cáo hoạt động đầu tư từ dự phòng nghiệp vụ(quý, năm)

- Báo cáo khả năng thanh toán(quý, năm)

- Báo cáo ASEAN (năm)

- Báo cáo tham gia hoạt động cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới

- Báo cáo doanh thu tái bảo hiểm(quý, năm)

- Báo cáo bồi thường/ trả tiền tái bảo hiểm(quý, năm)

- Báo cáo tài chính tóm tắt (năm)

- Báo cáo tài chính được kiểm toán (năm)

Mẫu báo cáo được qui định tại Thông tư 156/2007/TT-BTC nay được thay thế bằng thông tư 125/2012/TT-BTC ngày 30/7/2012 của Bộ Tài chính. Ngoài ra còn có các báo cáo đột xuất theo yêu cầu quản lý, giám sát tại từng thời điểm cụ thể.

Các DNBH có trách nhiệm tính toán các chỉ tiêu giám sát được qui định tại Quyết định số 153/2003/QĐ-BTC ngày 22/9/2003 của Bộ Tài chính và báo cáo Bộ Tài chính (Cục QLBH), gồm 12 chỉ tiêu được chia thành 4 nhóm:

- Nhóm chỉ tiêu hoạt động chung:

+ Chỉ tiêu thay đổi về nguồn vốn, quỹ

+ Chỉ tiêu tổng doanh thu phí bảo hiểm trên nguồn vốn, quỹ

+ Chỉ tiêu doanh thu phí bảo hiểm thuần trên nguồn vốn, quỹ

+ Chỉ tiêu thay đổi doanh thu phí bảo hiểm thuần

+ Chỉ tiêu trợ vốn trên nguồn vốn, quỹ

+ Chỉ tiêu tỷ lệ bồi thường

+ Chỉ tiêu tỷ lệ chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm

- Nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận:

+ Chỉ tiêu tỷ lệ kết hợp

+ Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận đầu tư

- Nhóm chỉ tiêu về tính thanh khoản

+ Chỉ tiêu công nợ trên tài sản có tính thanh khoản

+ Chỉ tiêu nợ phí trên nguồn vốn quĩ

- Nhóm chỉ tiêu về dự phòng nghiệp vụ

+ Chỉ tiêu dự phòng bồi thường trên phí bảo hiểm thuần được hưởng



Bước 2: Kiểm tra hồ sơ từ các thông tin nhận được. Các thông tin thu được từ hệ thống báo cáo và hệ thống chỉ tiêu phân tích được cán bộ giám sát doanh nghiệp tổng hợp, đối chiếu và kiểm tra tính chính xác của thông tin.

Bước 3: Tính toán/ước tính. Trên cơ sở thông tin thu thập được, Cục cán bộ giám sát tiến hành phân tích, đánh giá và tổng hợp chung toàn thị trường. Đối chiếu các kết quả của doanh nghiệp với các qui định của pháp luật trên các mặt sau:

- Phân tích các chỉ tiêu giám sát và các rủi ro tài chính của doanh nghiệp, bao gồm:

+ Tính toán, phân tích các chỉ tiêu giám sát DNBH theo Quyết định 153/QĐ- BTC ngày 22/9/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Đối chiếu kết quả thực tế với biên độ tham chiếu của từng chỉ tiêu.

Bảng 2.3: Giới hạn tham chiếu các chỉ tiêu cảnh báo sớm



TT


Chỉ tiêu

Giới hạn tham chiếu

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng

khi các chỉ tiêu ngoài giới hạn tham chiếu


1

Chỉ tiêu thay đổi về nguồn vốn quỹ


-15 đến 50%

Chính sách cổ tức, phương pháp trích lập dự phòng, thay đổi qui định

về vốn


2

Chỉ tiêu tổng doanh thu phí bảo hiểm trên nguồn vốn quỹ


<900%

Tỷ trọng các nghiệp vụ có mức biến động lớn, rủi ro của nhận tái bảo hiểm, xu hướng tăng trưởng vốn


3

Chỉ tiêu doanh thu phí bảo hiểm thuần trên nguồn vốn quỹ


< 300%

Tỷ trọng các nghiệp vụ có mức biến

động lớn, rủi ro của nhận tái bảo hiểm, xu hướng tăng trưởng vốn


4


Chỉ tiêu thay đổi doanh thu phí bảo hiểm thuần


- 50 đến

50%

Tác động tăng giảm phí đến doanh thu, rủi ro khi thay đổi cơ cấu sản phẩm, thay đổi trong chính sách khai

thác bảo hiểm

5

Chỉ tiêu trợ vốn trên nguồn vốn, quỹ

<15%

Phân tích ảnh hưởng của nguồn vốn, quĩ sau khi trừ phần trợ vốn

6

Chỉ tiêu tỷ lệ bồi thường

<80%

Nguyên nhân bồi thường, qui trình

quản lý rủi ro, xét nhận bồi thường,..

7

Chỉ tiêu tỷ lệ chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm

<20%

Quản lý chi phí, tính tuân thủ pháp luật

8

Chỉ tiêu tỷ lệ kết hợp

<100%

ảnh hưởng của chi phí bồi thường

hay chi phí quản lý kinh doanh

9

Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận đầu tư

4,5% đến 10%

Tính thanh khoản, chi phí đầu tư cao

10

Chỉ tiêu công nợ trên tài sản có tính thanh khoản

<150%

Mức trích lập dự phòng, cơ cấu tài sản

11

Chỉ tiêu nợ phí trên nguồn vốn quỹ

<40%

Quản lý công nợ

12

Chỉ tiêu dự phòng BT trên phí

bảo hiểm thuần được hưởng

>20%

Phương pháp trích lập, thông tin để

trích lập

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

Giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam - 10



+ Phân tích các rủi ro tài chính của doanh nghiệp.

Trường hợp kết quả tính toán của các chỉ tiêu có những biến động bất thường, các doanh nghiệp có trách nhiệm giải trình những yếu tố gây nên những biến động đó và phải có biện pháp điều chỉnh, khắc phục kịp thời.

- Phân tích quản trị doanh nghiệp, tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp.

+ Phân tích tình hình quản trị doanh nghiệp: Ban quản trị doanh nghiệp (tiêu chuẩn, trình độ, kinh nghiệm của các cá nhân chủ chốt nếu có biến động); công tác kiểm soát nội bộ, qui trình nghiệp vụ, quản trị rủi ro.

+ Phân tích việc tuân thủ các quy định pháp luật của doanh nghiệp.

- Phân tích, đánh giá các rủi ro khác mà doanh nghiệp phải đối mặt trong quá trình hoạt động.

Bước 4: Lập báo cáo. Trên cơ sở kết quả tính toán, phân tích cán bộ giám sát lập báo cáo giám sát đối với từng DNBH. Trên cơ sở báo cáo giám sát từ xa, báo cáo tự giám sát của DNBH và các thông tin thu thập được, Cục Quản lý, giám sát Bảo hiểm thực hiện việc phân tích, đánh giá và lập kế hoạch, nội dung kiểm tra tại chỗ trong trường hợp cần thiết.

Qui trình giám sát từ xa do các chuyên viên trong phòng Quản lý, giám sát phi nhân thọ thực hiện. Mỗi chuyên viên giám sát từ 2 đến 3 DNBH. Công việc được thực hiện theo các bước trên tuy nhiên việc trao đổi thông tin được thực hiện qua điện thoại và email giữa chuyên viên và DNBH. Định kỳ các DNBH báo cáo số liệu cho Bộ Tài chính; cán bộ quản lý tổng hợp, phân tích số liệu và đề xuất hướng xử đối với từng DNBH lên các cấp quản lý cao hơn.

Khi thực hiện qui trình này cũng có những điểm bất cập, thể hiện:

- Thông tin cập nhật vẫn xảy ra tình trạng bị chậm, không kịp thời.

- Số liệu của DNBH cung cấp đôi khi vẫn chưa chuẩn xác, vẫn thường xuyên phải điều chỉnh.

- Toàn bộ hoạt động phân tích số liệu và theo dõi thông tin của DNBH hoàn toàn thực hiện thủ công trên word hoặc excel tùy theo cách làm của từng chuyên viên, chưa có phần mềm cập nhật dữ liệu chung cho toàn thị trường cũng như từng doanh nghiệp hoặc một format thống nhất nào, không thể tránh khỏi những sơ suất trong khâu tính toán số liệu.



- Qui trình giám sát từ xa chưa có sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin, chưa có các phần mềm sử dụng các mô hình phân tích lượng, mô hình kiểm định rủi ro, mô hình cảnh báo sớm. Chưa có phần mềm để lưu giữ hệ thống dữ liệu lịch sử của DNBH. Do vậy, khi phân tích sẽ không đảm bảo tính đồng nhất, nhất là trong trường hợp thay đổi cán bộ quản lý doanh nghiệp.

- Khi phân tích chủ yếu dựa vào các chỉ tiêu cảnh báo sớm để đánh giá, nhưng trên thực tế biên độ tham chiếu được xây dựng theo quyết định 153/QĐ-BTC không hoàn toàn phù hợp với thị trường Việt Nam dẫn đến việc đánh giá không thể sát và chuẩn xác được, khó khăn trong công tác đánh giá chung cả thị trường, hoặc phát hiện sớm các rủi ro xảy ra. Trong trường hợp cần thông tin đột xuất, các chuyên viên yêu cầu DNBH cung cấp, thông thường các thông tin cung cấp sẽ bị động và tính chính xác không cao.

(*) Giám sát tại chỗ

Giám sát tại chỗ bao gồm việc kiểm tra, thanh tra tại chỗ. Hoạt động thanh tra DNBH phải tuân thủ theo Luật Thanh tra 2010 và các văn bản pháp luật qui định về hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra của ngành Tài chính nói riêng như: Nghị định 07/2012/NĐ-CP ngày 9/2/2010 qui định về cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành; Nghị định 82/2012/NĐ-CP ngày 9/10/2012 của Chính phủ qui định về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành tài chính; Qui trình thanh tra doanh nghiệp của thanh tra ngành tài chính. Do đó, qui trình giám sát tại chỗ của Vụ Bảo hiểm không còn phù hợp, đến nay chưa ban hành qui trình mới về giám sát tại chỗ đối với DNBH. Qui trình giám sát tại chỗ đang thực hiện theo các qui định chung về thanh tra nói chung, được thực hiện theo các bước sau đây:

- Bước 1: Chuẩn bị và ra quyết định thanh tra

+ Thu thập thông tin về đối tượng thanh tra

+ Lập báo cáo khảo sát

+ Lập kế hoạch thanh tra, ra quyết định, phê duyệt kế hoạch thanh tra

+ Chuẩn bị triển khai thanh tra

- Bước 2: Tiến hành thanh tra

+ Công bố quyết định thanh tra

+ Tiến hành thanh tra



- Bước 3: Kết thúc thanh tra

+ Báo cáo kết quả thanh tra, dự thảo kết luận thanh tra

+ Kết luận thanh tra và lưu hành kết luận thanh tra

+ Bàn giao, lưu trữ hồ sơ thanh tra

+ Họp rút kinh nghiệm đoàn thanh tra

Cuộc thanh tra được thực hiện trong không quá 45 ngày, trường hợp phức tạp có thể kéo dài hơn nhưng không quá 70 ngày.

Pháp luật không qui định về qui trình kiểm tra, trên thực tế qui trình kiểm tra được áp dụng như qui trình thanh tra nhưng thời gian thực hiện của một cuộc kiểm tra không quá 7 ngày làm việc. Hoạt động giám sát đã tuân thủ một phần theo yêu cầu của nguyên tắc ICP 9.

Căn cứ vào kết quả giám sát từ xa, Phòng Thanh tra chủ trì, Phòng Quản lý giám sát bảo hiểm phi nhân thọ phối hợp với phòng thanh tra đề xuất kế hoạch đi kiểm tra và thanh tra các DNBH trên thị trường. Việc kiểm tra, thanh tra được thực hiện theo kế hoạch từ đầu năm, tuy nhiên cũng có trường hợp kiểm tra, thanh tra đột xuất khi có khiếu tố, hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Các bước thực hiện của một cuộc kiểm tra hay thanh tra hoàn toàn phù hợp với qui trình chung mà bất kỳ cơ quan giám sát thực hiện. Tuy nhiên do thực hiện theo phương thức tuân thủ nên nội dung các cuộc kiểm tra, thanh tra mang nặng tính phát hiện sai phạm hơn là việc giám sát hoạt động kinh doanh của DNBH. Cán bộ thanh tra tập trung nhiều vào việc tìm ra các sai phạm trong công tác kế toán và hoạt động của DNBH. Việc trao đổi giữa cán bộ thanh tra với cán bộ của DNBH để tìm ra các điểm yếu trong các qui trình thực hiện nhằm khuyến cáo cho DN chưa được chú trọng.

2.2.2. Cơ quan giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam

Mô hình giám sát thị trường bảo hiểm Việt Nam là mô hình giám sát theo định chế. Theo Nghị định số 178/ CP ngày 28/10/1994 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính, nhiệm vụ giám sát thị trường bảo hiểm Việt Nam được giao cho Vụ Tài chính Ngân hàng và các tổ chức tài chính. Phòng Quản lý bảo hiểm thuộc Vụ Tài chính Ngân hàng và các tổ chức tài chính được thành lập với 6 cán bộ là tiền thân của cơ quan giám sát thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày nay.



Điều 121 Luật Kinh doanh bảo hiểm được ban hành năm 2000 qui định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về KDBH, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về KDBH. Do vậy, Nghị định số 77/2003/ NĐ- CP ngày 01/7/2003 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính là văn bản pháp quy đầu tiên qui định về việc hình thành bộ máy quản lý, giám sát bảo hiểm tương đương cấp Vụ. Theo Nghị định này, Phòng Quản lý bảo hiểm thuộc Vụ Tài chính Ngân hàng và các tổ chức tài chính được nâng lên thành Vụ Bảo hiểm. Quyết định 134/2003/QĐ-BTC ngày 20/8/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính qui định nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ Bảo hiểm, trong đó qui định cơ cấu tổ chức của Vụ Bảo hiểm thực hiện theo chế độ chuyên viên, không có cấp phòng. Từng chuyên viên thực hiện việc quản lý, giám sát đối với một hoặc vài DNBH. Tuy nhiên, việc kiểm tra, thanh tra vẫn phải thực hiện cùng với Thanh tra Bộ Tài chính, phối hợp với Thanh tra Bộ trong việc xây dựng kế hoạch và thực hiện thanh tra hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và xu hướng hội nhập, thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng ngày một phát triển và hội nhập sâu vào thị trường bảo hiểm khu vực và thế giới đòi hỏi công tác quản lý, giám sát phải phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của cơ quan quản lý, giám sát đối với thị trường bảo hiểm, tại Nghị định số 118/2008/NĐ-CP ngày 27/11/2008 của Chính phủ qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính đã cho phép chuyển Vụ Bảo hiểm thành Cục Quản lý giám sát bảo hiểm. Bộ Tài chính đã có Quyết định số 288/QĐ-BTC ngày 12/2/2009 và hiện nay là Quyết định số 1313/QĐ-BTC ngày 11/6/2014 qui định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý, giám sát bảo hiểm trong đó đã qui định:

“Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm là đơn vị thuộc Bộ Tài chính, có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm trong phạm vi cả nước; Trực tiếp, quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm và các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.

Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và ngân hàng theo qui định của pháp luật”.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/12/2023