Khát Quát Thị Trường Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ Việt Nam



hỏi các nhà quản lý giám sát phải có tầm nhìn vĩ mô, toàn cầu, có sự phối hợp chặt chẽ trong các thị trường nhưng phải tạo điều kiện cho từng thị trường riêng biệt phát triển. Quan điểm giám sát thị trường của các nước đã và đang theo xu hướng giám sát trên cơ sở rủi ro, sớm phát hiện và ngăn chặn những rủi ro có nguy cơ ảnh hưởng tới an toàn của thị trường.

Đặc biệt, những quan điểm về phương thức giám sát thay đổi đòi hỏi phải thay đổi về tư duy, về các văn bản hướng dẫn thực hiện theo phương thức mới như cách tính vốn, cách giám sát từ xa, cách thức thu thập thông tin,… mô hình cơ quan giám sát. Tất cả những qui định đó được luật hóa trong thể chế giám sát, phù hợp các nguyên tắc và thông lệ chung.

Thứ hai: Xây dựng mô hình cơ quan giám sát phù hợp với trình độ phát triển của thị trường

Trong bối cảnh phát triển đa dạng và đan xen giữa các ngành nghề, thì không nên xem xét cơ quan giám sát bảo hiểm một cách riêng rẽ mà cần xem xét trong một thị trường tài chính tổng thể, trong mối liên hệ, chia sẻ thông tin với các cơ quan giám sát trong thị trường tài chính.

Đối với từng nước khác nhau, mức độ can thiệp của nhà nước vào thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là khác nhau, nhưng để phát huy được vai trò của cơ quan giám sát và đạt được mục tiêu giám sát thì cơ quan giám sát cần có được các chức năng quyền hạn như nguyên tắc số 1 của IAIS đã qui định.

Những yếu tố tác động, chi phối tới hiệu quả của hoạt động giám sát là sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin, sự phối hợp giữa các cơ quan giám sát, giữa cơ quan giám sát và các DNBH.

Mỗi nước xây dựng mô hình cơ quan giám sát phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của thị trường cũng như điều kiện hiện tại của cơ quan giám sát mỗi nước. Nhưng trong xu hướng phát triển của thị trường tài chính nói chung và thị trường bảo hiểm nói riêng thì mô hình giám sát hợp nhất vẫn là mô hình giám sát hiệu quả trong bối cảnh các sản phẩm tài chính phát triển đa dạng và phong phú như hiện nay.

Thứ ba: Thiết lập các nội dung giám sát hợp lý với trình độ phát triển của thị trường

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

Nội dung giám sát được thực hiện trên hai mảng chính là giám sát tài chính và giám sát nghiệp vụ. Nhưng với xu hướng chung của toàn cầu, mức độ gia tăng rủi ro,


Giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam - 8


các nội dung giám sát theo xu hướng phát hiện rủi ro và có khả năng chống đỡ với các rủi ro đã dần được nhiều nước áp dụng. Bên cạnh qui định về vốn tối thiểu nhiều nước đã chuyển sang áp dụng vốn trên cơ sở rủi ro; bên cạnh biên khả năng thanh toán I các nước cũng đang hướng tới biên khả năng thanh toán II với những ưu điểm của phương pháp tính này. Thậm chí có nước có thể đưa ra cách tính khả năng thanh toán cho riêng nước đó. Tất cả những qui định đó đều hướng tới mục tiêu phát triển thị trường ổn định, bền vững, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ sự an toàn tài chính cho DNBH.

Thứ tư: Các nước đều xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát và hệ thống chỉ tiêu cảnh báo sớm, mỗi nước đều có biên độ tham chiếu của từng chỉ tiêu khác nhau, tùy theo mức độ phát triển của thị trường

Hệ thống chỉ tiêu giám sát là công cụ hỗ trợ cho hoạt động giám sát thị trường. Mỗi nước cần xây dựng cho mình một hệ thống chỉ tiêu giám sát và hệ thống chỉ tiêu cảnh báo sớm riêng, tùy theo yêu cầu và đặc điểm của thị trường. Trong mỗi chỉ tiêu giám sát đều có biên độ mà căn cứ vào đó để cơ quan giám sát đưa ra các quyết định phù hợp. Các chỉ tiêu cảnh báo sớm được coi là những chỉ tiêu cơ bản dự báo về tình hình tài chính của DNBH. NAIC đã xây dựng các chỉ số này vào những năm đầu của thập kỷ 70 dựa trên việc áp dụng hàng trăm chỉ số về kết quả tài chính của hàng ngàn DNBH phi nhân thọ và hàng trăm DN mất khả năng thanh toán trong vòng 50 năm. Các chỉ tiêu cảnh báo sớm được xác định là các chỉ số để miêu tả mức độ quan trọng dự báo khả năng mất khả năng thanh toán 2 năm trước khi thực sự xảy ra. Mỗi hệ số có một biên thông thường và là kết quả khoảng 90% DNBH, nhưng biên thông thường của các quốc gia khác nhau là khác nhau phụ thuộc vào số lượng các DN trên thị trường, tỷ lệ biên thông thường lớn hơn khi mà số lượng DN nhỏ dần biến mất. Điều này có sự chênh lệch đáng kể khi tính toán với qui mô mẫu nhỏ. Do đó, khi vận dụng các chỉ tiêu cảnh báo sớm của NAIC các nhà xây dựng chính sách luôn cân nhắc qui mô của thị trường và xác định những biên độ phù hợp với qui mô của thị trường nước mình. Điều quan trọng là khi xây dựng các biên độ đó, cơ quan giám sát các nước phải căn cứ vào thị trường cụ thể của từng nước, mức độ tần xuất, ảnh hưởng của từng chỉ tiêu tới sự an toàn của DNBH và thị trường tài chính để đưa ra các quyết định xử lý. Do vậy, trong quá trình xây dựng các chính sách không thể áp dụng một cách máy móc từ nước này sang nước khác. Ví dụ mức cảnh báo của cơ quan giám sát hoàn toàn khác nhau giữa một DNBH có vốn sở hữu lớn, ở thị trường bảo hiểm phi nhân thọ phát triển



với DNBH khác ở một thị trường bảo hiểm chưa phát triển, vốn chủ sở hữu nhỏ mặc dù biên độ giao động chỉ tiêu về vốn là giống nhau (về mặt số tương đối). Quan trọng là phải có số liệu thống kê, thông tin về các DNBH trên thị trường để làm căn cứ xây dựng các chỉ tiêu giám sát, chỉ tiêu cảnh báo sớm cho từng thị trường.

Thứ năm: Hướng tới phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro

Hiện nay trên thế giới vẫn tồn tại cả 2 phương thức giám sát (tuân thủ và trên cơ sở rủi ro), với mỗi phương thức đều có những ưu, nhược điểm của nó. Phương thức giám sát tuân thủ thực hiện theo những quy định pháp luật đó là tập hợp một bộ các quy định bao gồm các quy định về cấp phép và đăng ký về tài sản được chấp nhận, phương pháp tính toán dự phòng, vốn (nhìn chung là ở mức cơ bản) và quản trị, điều hành. Giám sát chủ yếu thông qua giám sát từ xa, giám sát tại chỗ và dựa vào những tài liệu để đảm bảo rằng các quy định pháp luật được tuân thủ. Những vấn đề gặp phải khi áp dụng phương pháp tiếp cận này là:

- Trong nhiều trường hợp, các quy định không thể bắt kịp với sự phát triển và thay đổi của ngành. Những thay đổi về luật pháp rất chậm, mà đôi khi là không thể thay đổi, trong khi ngành có những đổi mới như đổi mới về loại tài sản hoặc kỹ thuật phát triển với tốc độ rất nhanh, vì thế luôn có sự lệch pha giữa quy định pháp luật với những gì thực sự đang diễn ra trong ngành.

- Tài liệu báo cáo thường không còn tính thời sự tại thời điểm báo cáo cho cơ quan giám sát và không phản ánh điều gì đang diễn ra.

- Mặc dù tuân thủ theo pháp luật, nhưng một số tổ chức tài chính vẫn có thể bị phá sản.

- Có thể thời gian giám sát được phân bổ nhiều hơn hoặc ít hơn đối với các DNBH, một số DNBH hoạt động tốt thì lại có thể bị giám sát quá chặt, gây lãng phí nguồn lực giám sát, trong khi đó một số tổ chức hoạt động kém và đang rất rủi ro thì lại ít bị giám sát hơn.

Tuy nhiên, phương thức giám sát này đơn giản, phù hợp với trình độ cán bộ giám sát chưa cao, hệ thống thông tin dữ liệu lịch sử rủi ro của DNBH chưa có.

Phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro có những lợi thế sau:

- Nguồn lực quản lý, giám sát có giới hạn được sử dụng một cách có hiệu quả nhất và tránh bị lãng phí tại những tổ chức mà chưa cần phải tập trung giám sát ngay.



- Cách tiếp cận này theo hướng nhắm vào các vấn để có thể xảy ra trong tương lai, nỗ lực nhận biết vấn đề và kịp thời khắc phục khi những vấn đề này vẫn còn nhỏ, trước khi chúng trở nên nghiêm trọng.

Tuy nhiên, để thực hiện phương thức giám sát này đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ giám sát có trình độ, đủ để đánh giá những rủi ro có khả năng xảy ra đối với DNBH. Phải có hệ thống công nghệ thông tin, chỉ tiêu giám sát hỗ trợ thông qua các mô hình toán học. Hệ thống dữ liệu rủi ro của từng DNBH tối thiểu là 5 năm.

Với sự xuất hiện các loại hình kinh doanh tài chính ngày càng đa dạng và phức tạp, việc quản lý rủi ro ngày càng trở nên quan trọng đối với các DNBH. Các nước tiên tiến trên thế giới đã sử dụng phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro là phương thức quản lý trong nhiều năm nay. Các nước khác cũng đang dần chuyển đổi phương thức giám sát, chuyển từ phương thức giám sát tuân thủ sang phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro. Mặt khác, trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, các nước dần tiến tới áp dụng theo các qui tắc và chuẩn mực chung. Việc chuyển đổi dần sang phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro cũng là phù hợp. Để làm được đòi hỏi phải có sự chuyển đổi nhận thức và tư duy của các nhà quản lý, giám sát cũng như phải có một sự chuẩn bị đầy đủ về nhận thức, điều kiện vật chất, đội ngũ cán bộ và có thời gian chuyển đổi. Việc thực hiện qui trình giám sát từ xa hay giám sát tại chỗ cũng đang được chuyển dần theo hướng giám sát mang tính tuân thủ sang giám sát trên cơ sở rủi ro và tôn trọng các nguyên tắc, kỷ luật thị trường, theo đó ưu tiên giám sát toàn diện bao gồm an toàn vi mô (giám sát mức độ lành mạnh và an toàn của từng DNBH) và giám sát an toàn vĩ mô (giám sát các nguy cơ rủi ro hệ thống và phát hiện các rủi ro tiềm ẩn nảy sinh từ các biến động kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính và hạ tầng cơ sở thị trường đối với sự ổn định của hệ thống tài chính).



KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ cũng giống như các thị trường dịch vụ tài chính đều hoạt động theo qui luật chung của thị trường và theo qui luật riêng của nó là qui luật số đông bù số ít. Hoạt động giám sát thị trường của cơ quan giám sát Nhà nước giúp cho thị trường vận động theo đúng các qui luật, phát triển ổn định, các DNBH có tình hình tài chính lành mạnh và bảo vệ người tham gia bảo hiểm.

Hoạt động giám sát diễn ra theo một qui trình bao gồm giám sát từ xa và giám sát tại chỗ (kiểm tra, thanh tra). Bắt đầu cán bộ giám sát sẽ thường xuyên theo dõi hồ sơ báo cáo của các doanh nghiệp, thị trường,… sử dụng kết quả phân tích các thông tin này để nhận biết rủi ro của doanh nghiệp. Từ các thông tin về rủi ro của doanh nghiệp để xây dựng kế hoạch giám sát doanh nghiệp; bằng việc giám sát này lại có thêm thông tin để bổ sung vào lịch sử rủi ro của doanh nghiệp. Đối với các rủi ro vượt ngưỡng cho phép cơ quan giám sát sẽ có những biện pháp kiểm soát phối hợp với doanh nghiệp để từng bước đưa rủi ro về mức chấp nhận được và sau đó lại quay lại quá trình theo dõi ban đầu, bắt đầu một qui trình mới.

Tuy nhiên cách thức, nội dung của qui trình giám sát đó có sự khác biệt đối với từng phương thức giám sát. Tùy theo trình độ phát triển của thị trường của từng nước mà lựa chọn phương thức giám sát khác nhau (tuân thủ hay trên cơ sở rủi ro). Mỗi phương thức giám sát đều có ưu, nhược điểm riêng.

Trong chương 1 đã hệ thống hóa lý luận những vấn đề cơ bản của thị trường từ khái niệm, các thành tố của thị trường, qui luật của thị trường. Hệ thống hóa lý luận về giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm mục tiêu, nguyên tắc, phương thức, nội dung, qui trình giám sát, cơ quan giám sát,…từ đó làm tiền đề cho việc phân tích cũng như đề xuất các giải pháp trong công tác giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.


Chương 2

THỰC TRẠNG GIÁM SÁT THỊ TRƯỜNG

BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008 - 2013


2.1. KHÁT QUÁT THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM

2.1.1. Các chủ thể tham gia thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam

So với lịch sử phát triển của thị trường bảo hiểm thế giới thì lịch sử phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam là còn khá non trẻ. Với sự ra đời của Nghị định 100/CP ngày 18 tháng 12 năm 1993 quy định về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, là khởi điểm cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Thị trường đã có sự tham gia của nhiều DNBH thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Các qui luật chung của thị trường cũng như các quy luật riêng vốn có của thị trường được phát huy tác dụng.

Với sự ra đời của Luật kinh doanh bảo hiểm (Luật số 24/2000/QH10 ngày 9/12/2000) và các văn bản dưới luật đã tạo ra một hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay đã bao gồm đầy đủ các yếu tố cơ bản cấu thành thị trường là người bán, người mua, trung gian bảo hiểm, sản phẩm trao đổi trên thị trường. (Phụ lục số 4: Danh sách các DNBH và DN MGBH đến 31/12/2013).

2.1.1.1. Người bán

* Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ:

Theo qui định của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, trên thị trường đã tồn tại các loại hình DNBH như: DNBH nhà nước, công ty cổ phần bảo hiểm, DNBH liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Địa vị pháp lý của tổ chức bảo hiểm tương hỗ đã được thừa nhận nhưng cho tới nay thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa có tổ chức bảo hiểm tương hỗ nào ra đời và hoạt động.

Với việc ban hành Luật Doanh nghiệp, thừa nhận sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, trong thời gian qua các DNBH nhà nước như Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET), Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE), Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh),... đã tiến hành cổ phần hóa chuyển thành các DNBH có cổ phần chi phối của Nhà nước. Các Công ty bảo hiểm liên doanh như: Công ty liên doanh bảo hiểm Liên hiệp (UIC), Công ty liên doanh bảo hiểm Việt -Úc (BIVD- QBE),… cũng đã chuyển thành các công ty bảo hiểm cổ phần hoặc công ty TNHH.



Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm số 61/2010/QH12 chính thức thừa nhận các loại hình pháp lý của DNBH gồm: Công ty cổ phần bảo hiểm; Công ty TNHH bảo hiểm; Hợp tác xã bảo hiểm; Tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Các DNBH nước ngoài hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức công ty TNHH hoặc chi nhánh DNBH phi nhân thọ nước ngoài.

Số lượng các DNBH trong 20 năm qua đã tăng nhiều. Tính đến ngày 31/12/2013 trên thị trường có 29 DNBH phi nhân thọ (gồm: 15 công ty cổ phần; 11 công ty TNHH 1 thành viên và 03 công ty TNHH 2 thành viên trở lên). Chưa có Hợp tác xã bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tương hỗ hay DNBH nước ngoài thành lập chi nhánh tại Việt Nam nào được thành lập. Do được lựa chọn theo các tiêu chí chặt chẽ, công khai, minh bạch nên hầu hết các chủ đầu tư góp vốn thành lập DNBH đều là các tổ chức kinh tế, tài chính trong nước và quốc tế có uy tín, tiềm lực mạnh, góp phần vào sự phát triển an toàn, ổn định của thị trường bảo hiểm Việt Nam.

* Doanh nghiệp tái bảo hiểm

Để chuyển giao rủi ro của các DNBH, cũng như để tránh việc chi ngoại tệ và một phần phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài, Nhà nước đã có những hạn chế nhất định đối với hoạt động tái bảo hiểm như bắt buộc các DNBH trong nước phải sử dụng hết các khả năng đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm sẵn có trong nước trước khi tái bảo hiểm ra nước ngoài. Trong suốt từ năm 1994 - 2011, trên thị trường chỉ có duy nhất Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE). Đến năm 2011 Công ty tái bảo hiểm PVI (PVI Re) được thành lập.

Một số DNBH đã được các tổ chức đánh giá tín nhiệm trên thế giới xếp hạng. Năm 2013, tổ chức xếp hạng quốc tế A.M.Best đã xếp hạng về năng lực tài chính, trong đó DNBH Samsung Vina và Vinare được xếp hạng B++, DNBH PVI và PVI Re được xếp hạng B+. Một số DNBH khác đang xúc tiến để được các tổ chức xếp hạng. Đây là điều kiện tốt để các DNBH phi nhân thọ tạo dựng hình ảnh của mình trên thị trường bảo hiểm thế giới, thể hiện tính chuyên nghiệp của các DNBH, san sẻ rủi ro giữa thị trường bảo hiểm trong nước với các DNBH trên thế giới.

2.1.1.2. Người mua

Thị trường bảo hiểm Việt Nam là một thị trường còn nhiều tiềm năng, hiện nay tỷ lệ mua bảo hiểm /GDP (%) là 1,85%, phí bảo hiểm bình quân đầu người là 19,5$, con số này chỉ cao hơn Lào và Campuchia (5,46 & và 1,95$)[15]. Do GDP của nước ta còn



thấp, người dân chưa đủ khả năng tài chính để chi trả bảo hiểm cho tài sản của mình mặt khác họ cũng không có nhiều tài sản có giá trị cần được bảo hiểm nên mức độ tham gia bảo hiểm chưa cao. Đối với cá nhân, mức độ coi trọng sự đảm bảo an toàn cho cuộc sống bản thân và gia đình hơn là nhu cầu đảm bảo đối với các tài sản của mình. Các cá nhân trong doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có nhận thức về vai trò bảo hiểm trong việc hỗ trợ tổn thất về mặt tài chính khi rủi ro xảy ra tốt hơn nông dân, công nhân, lao động tự do. Số người mua chủ yếu tập trung ở thành phố, thành thị. Do vậy, các DNBH phi nhân thọ tập trung chủ yếu vào các khách hàng tổ chức. Mặc dù nhận thức của người dân và các tổ chức về bảo hiểm còn thấp song cũng ngày một rõ nét và tốt hơn. Bên cạnh những loại hình bảo hiểm bắt buộc mà Nhà nước yêu cầu thì người dân và tổ chức đã bắt đầu chủ động trong việc tìm mua các sản phẩm bảo hiểm để bảo vệ cho tài sản và sức khỏe của người dân và tổ chức. Điều đó được thể hiện qua số lượng hợp đồng và doanh thu phí bảo hiểm đã tăng đều trong từng năm qua. Bên cạnh đó cũng nhận thấy nhiều phân đoạn thị trường còn bỏ ngỏ.

2.1.1.3. Các trung gian bảo hiểm

* Môi giới bảo hiểm

Thị trường bảo hiểm Việt Nam tính đến 31/12/2013 đã có 12 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Trong đó 5 công ty có vốn nước ngoài, có công ty mẹ là các tập đoàn môi giới bảo hiểm lớn trên thế giới như AON, GrasSavoye, Jardine Loyld Thompson, Marsh, Toyota-Tsusho. Doanh thu hoa hồng môi giới bảo hiểm của 5 công ty môi giới có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 70% doanh thu hoa hồng môi giới của cả thị trường.

Điểm 4, Điều 3, Luật KDBH năm 2000 qui định: “Hoạt động môi giới bảo hiểm là việc cung cấp thông tin, tư vấn cho bên mua bảo hiểm về sản phẩm bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và các công việc liên quan đến việc đàm phán, thu xếp và thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm” [14].

Trong những năm qua các DNMGBH đã dần đi vào hoạt động ổn định, phí bảo hiểm thu xếp qua kênh môi giới tăng đều từng năm. Các DNMGBH đã nỗ lực trong việc phát triển kinh doanh, nâng cao uy tín của mình trên thị trường và đối với khách hàng. DNMGBH thực sự là người đại diện cho khách hàng, tư vấn được cho khách hàng loại hình bảo hiểm phù hợp với mức phí phù hợp. Các DNMGBH ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn, đặc biệt là các DNMGBH trong nước mặc dù cũng còn nhiều tồn tại nhưng cũng đã từng bước hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ.

Xem tất cả 202 trang.

Ngày đăng: 25/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí