Công Tác Kiểm Tra, Kiểm Soát Hoạt Động Giám Sát


* Giám sát chất lượng tài sản có (A)

Nội dung hoạt động chủ yếu của một TCTD thể hiện ở phía tài sản có. Quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản có quyết định sự tồn tại và phát triển của TCTD. Chất lượng tài sản có nói lên chất lượng quản lý, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời và triển vọng bền vững của một ngân hàng. Phần lớn rủi ro trong hoạt động ngân hàng đều tập trung ở phía tài sản của nó nên cùng với việc đảm bảo có đủ vốn thì vấn đề nâng cao chất lượng tài sản có là yếu tố quan trọng, đảm bảo cho ngân hàng hoạt động an toàn.

Tài sản có của TCTD bao gồm các tài sản có sinh lời và tài sản có không sinh lời, trong đó tài sản có sinh lời chiếm phần chủ yếu. Tài sản có sinh lời là những tài sản đem lại nguồn thu nhập chính cho tổ chức tín dụng đồng thời cũng là những tài sản chứa đựng nhiều rủi ro.

Trong hoạt động ngân hàng truyền thống, nghiệp vụ chủ yếu là huy động vốn để cho vay. Còn hiện nay, để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng và đáp ứng tối đa tiện ích cho người sử dụng và doanh nghiệp, hoạt động ngân hàng hiện đại ngoài việc huy động vốn để cho vay, các ngân hàng còn rất nhiều các sản phẩm và dịch vụ khác như đầu tư, bảo lãnh, thanh toán, mua lại nợ, thị trường mở,… nhưng các khoản cho vay vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất. Việc đánh giá chất lượng tài sản có được dựa trên tài sản có sinh lời, mà trước hết được phản ánh ở chất lượng của hoạt động tín dụng. Thông thường, chất lượng tín dụng của ngân hàng được đánh giá qua các chỉ số:

+ Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ

+ Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ

+ Tỷ lệ giữa dự phòng phải thu khó đòi so với tổng dư nợ

Nếu các tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng tín dụng của một TCTD càng cao. Thông thường khi đánh giá các chỉ tiêu này thường được so sánh với mốc 5% cho nợ quá hạn và 3% cho nợ xấu trên tổng dư nợ.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Ngoài ra, một số yếu tố khác cũng được xem xét đến, chẳng hạn như mức độ tập trung tín dụng hoặc đầu tư, bản chất và số lượng của các nhóm nợ đặc biệt, tính hợp lý của các chính sách cho vay và các quy trình thủ tục tín dụng. Một ngân hàng có mức độ tín dụng xấu, tỷ lệ nợ khê đọng cao sẽ gây ra những tổn thất về tài sản, giảm khả năng sinh lời trong khi mức dự phòng trích lập không đủ sẽ dẫn đến giảm sút vốn tự có và cuối cùng sẽ mất khả năng thanh toán.

Bên cạnh chất lượng hoạt động tín dụng, chất lượng tài sản có của TCTD còn thể hiện ở các tài sản có khác như danh mục đầu tư chứng khoán, tài sản ngoại tệ, vàng bạc, đá quý,… Do đó, để đánh giá chất lượng tài sản và mức độ hoạt động của TCTD một cách đầy đủ và chính xác, một mặt phải xem xét toàn diện cơ cấu, tính chất tài sản mà ngân hàng đang nắm giữ, mặt khác phải xem xét mối tương quan giữa cơ cấu tài sản có và tài sản nợ. Mối tương quan này giúp đánh giá tính tối ưu trong cơ cấu tài sản, khả năng phản ứng của TCTD trước những biến động của thị trường, khả năng đứng vững trước những hiện tượng bất thường của môi trường kinh doanh và đáp ứng yêu cầu rút tiền của công chúng.

Giám sát các quỹ tín dụng nhân dân tham gia bảo hiểm tiền gửi của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội - 4

Một số chỉ tiêu khác cũng phản ánh chất lượng tài sản có của TCTD, chẳng hạn như tỷ lệ vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung, dài hạn; tỷ lệ dư nợ cho vay một khách hàng lớn nhất; tỷ lệ dư nợ cho vay một nhóm khách hàng,… Những chỉ tiêu này có thể chỉ ra được mức độ ảnh hưởng của TCTD khi thị trường có biến động như một ngành nào đó có sự tăng trưởng đột xuất hoặc hầu hết các khách hàng trong ngành đó làm ăn thua lỗ, không thanh toán được nợ.

Như vậy, giám sát tài sản có là tập trung phân tích, đánh giá các nhóm tài sản có, từng loại cho vay, từng loại dịch vụ theo một chuẩn mực nhất định sau đó tổng hợp các chỉ tiêu để đưa ra đánh giá cuối cùng về chất lượng tài sản có.


* Năng lực quản lý (M)

Năng lực quản lý của mỗi TCTD là một trong các yếu tố quan trọng của mô hình CAMELS bởi quản lý đóng vai trò quyết định đến thành công trong hoạt động của TCTD. Nếu năng lực quản lý tốt có thể biến đổi một tổ chức tín dụng yếu kém thành một TCTD khá và ngược lại. Đặc biệt, các quyết định của người quản lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những yếu tố như: chất lượng tài sản, mức độ tăng trưởng của tài sản, mức độ thu nhập, khả năng lập kế hoạch,… Đánh giá năng lực quản lý của Ban lãnh đạo và chất lượng quản lý thể hiện qua các nội dung sau:

+ Năng lực đề ra chiến lược kinh doanh có sức cạnh tranh và đứng vững trong thị trường.

+ Xây dựng kế hoạch triển khai các công việc một cách hợp lý, rõ ràng, có hiệu quả.

+ Xây dựng các quy trình nghiệp vụ, thực hiện nghiệp vụ đảm bảo tuân thủ các quy định trong kinh doanh.

+ Tạo nên một cơ cấu tổ chức hợp lý, có hiệu quả, phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn giữa các nhân viên và người điều hành các bộ phận.

+ Có chính sách nhân sự khuyến khích các thành viên tích cực làm tốt các công việc, duy trì kỷ luật, tạo không khí thân mật, hợp tác trong công việc. Đội ngũ cán bộ cần đảm bảo có đủ khả năng, trình độ và phẩm chất đạo đức đáp ứng được yêu cầu công việc.

Từ nhận thức này khâu tuyển chọn những chức vụ quản lý TCTD được đặc biệt coi trọng. Đây là tiêu chuẩn được quy định thành những điều kiện trong luật áp dụng khi thành lập ngân hàng.

Trong quá trình hoạt động, tiêu chí để đánh giá chất lượng quản lý của một TCTD bao gồm:

+ Hiệu quả kinh doanh: Thông qua tốc độ tăng trưởng của kết quả kinh doanh có bền vững không, có bị ảnh hưởng khi có biến động không, khả năng hạn chế những tổn thất như thế nào.


+ Tuân thủ pháp luật, chế độ, chính sách trong kinh doanh.

+ Độ tín nhiệm trong môi trường kinh doanh đối với khách hàng và các ngân hàng khác.

* Lợi nhuận (E)

Lợi nhuận và kết quả tài chính là thể hiện cụ thể kết quả trong kinh doanh của TCTD. Trong cơ chế thị trường, TCTD chỉ có thể tồn tại và phát triển khi kinh doanh có lãi. Lợi nhuận được thể hiện ở các khía cạnh sau:

+ Các hoạt động kinh doanh phải tạo ra thu nhập tránh rủi ro và phải bù đắp được khi có rủi ro.

+ Chi phí hoạt động của TCTD kể cả những khoản lỗ năm trước.

+ Những khoản tổn thất trong năm tài chính, đặc biệt là những khoản tổn thất trong cho vay.

+ Đảm bảo một tỷ lệ tài sản có sinh lời so với tổng tài sản có.

+ Thu nhập tính theo bình quân tài sản có cao.

+ Chi phí cho vốn huy động thấp.

+ Chi phí cho những khoản tổn thất trong năm thấp.

+ Chi phí cho sản xuất kinh doanh hợp lý.

Nếu khả năng sinh lời của TCTD cao sẽ tạo ra nhiều lợi nhuận, giúp hình thành thêm vốn. Đây chính là yếu tố cần thiết để thu hút thêm vốn và sự hỗ trợ phát triển trong tương lai từ phía các nhà đầu tư. Lợi nhuận cũng giúp bù đắp các khoản cho vay bị tổn thất và trích dự phòng đầy đủ.

Các nguồn thu chính của TCTD là: Thu nhập hoạt động tín dụng; thu từ hoạt động dịch vụ; thu từ hoạt động kinh doanh ngoại hối, mua bán và thu nhập khác. Trong đó thu nhập từ lãi là nguồn thu chủ yếu của các TCTD, sau đó là thu nhập từ hoạt động dịch vụ và thu nhập khác. Nguồn thu từ kinh doanh ngoại hối, mua bán ít phát sinh.

Thông thường, khả năng sinh lời của TCTD thường được đánh giá qua các chỉ tiêu:

+ ROA (Return on Assets): là tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản


Công thức tính: ROA = Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản

+ ROE (Return on Equity): là tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu Công thức tính: ROE = Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu

* Khả năng thanh khoản (L)

Khả năng thanh khoản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt động của một TCTD. Trước hết, thanh khoản giúp đáp ứng yêu cầu vay mới mà không cần thu hồi những khoản cho vay đang trong hạn hoặc thanh lý các khoản đầu tư có kỳ hạn. Ngoài ra, thanh khoản giúp đáp ứng tất cả các biến động hàng ngày hay theo mùa vụ về nhu cầu rút tiền một cách kịp thời và có trật tự. Do TCTD thường xuyên huy động tiền gửi ngắn hạn với lãi suất thấp và cho vay số tiền đó với thời hạn dài, lãi suất cao hơn nên nhu cầu thanh khoản của TCTD về cơ bản rất lớn. Thanh khoản ảnh hưởng đến lòng tin của người gửi tiền và người cho vay. Duy trì khả năng thanh khoản là một yếu tố hết sức nhạy cảm. Kinh nghiệm cho thấy thậm chí đối với một TCTD có chất lượng tài sản có lành mạnh nhưng có yếu kém về khả năng thanh khoản, không đáp ứng được nhu cầu chi trả tiền gửi cho người gửi tiền có thể dẫn đến mất tín nhiệm và đưa đến nguy cơ phá sản.

Khả năng thanh khoản của TCTD được đánh giá dựa trên mức độ đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động của mình. Có thể xem xét đến các yếu tố như mức độ biến động của tiền gửi, mức độ phụ thuộc vào nguồn vốn nhạy cảm với rủi ro, khả năng sẵn có của những tài sản có thể chuyển đổi nhanh chóng thành tiền mặt, khả năng tiếp cận đến thị trường tiền tệ, mức độ hiệu quả nói chung của chiến lược, chính sách quản lý tài sản nợ và tài sản có của TCTD, tuân thủ với các chính sách thanh khoản nội bộ của TCTD, nội dung, quy mô và khả năng sử dụng dự kiến của các cam kết cấp tín dụng.

* Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (S)

Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường là mức độ ảnh hưởng của thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, giá tiêu dùng hoặc giá vốn có thể ảnh hưởng đến thu nhập vốn của một ngân hàng. Nếu trong cơ cấu tài sản của TCTD có


một tỷ lệ lớn những tài sản nhạy cảm với các yếu tố này, có thể báo hiệu một khả năng dễ tổn thương của TCTD. Đối với tiêu chí này, nhà phân tích đánh giá cần chú trọng quan tâm đến khả năng của ban lãnh đạo TCTD trong việc xác định, giám sát, quản lý và kiểm soát rủi ro thị trường, đồng thời đưa ra những định hướng rõ ràng và tập trung.

Rủi ro thị trường được đánh giá trên những yếu tố: Độ nhạy của thu nhập của tổ chức tín dụng; Khả năng quản lý để xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát tiếp xúc với rủi ro thị trường của tổ chức tín dụng; Bản chất và phức tạp của tiếp xúc với rủi ro lãi suất phát sinh từ vị trí không giao dịch; Tính chất và độ phức tạp của tiếp xúc với rủi ro thị trường phát sinh từ các hoạt động kinh doanh, hoạt động quản lý tài sản.

Khi đánh giá yếu tố này cần xem xét các vấn đề như: khả năng trong việc xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro thị trường; quy mô ngân hàng; bản chất và mức độ phức tạp về các hoạt động kinh doanh của ngân hàng; mức độ đầy đủ về vốn và thu nhập liên quan đến mức độ rủi ro thị trường.

c) Giám sát nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền; kiến nghị xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng

Căn cứ vào kết quả giám sát, tổ chức BHTG tiến hành phân nhóm các TCTD, thống kê các vi phạm của các TCTD và xác định các yêu cầu cần thực hiện đối với đơn vị được giám sát. Trên cơ sở đó, tổ chức BHTG đưa ra các thông báo, xử phạt, cảnh báo trong phạm vi thẩm quyền của mình và đồng thời đề xuất, kiến nghị cấp trên các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.

Đối với các TCTD vi phạm về tính và nộp phí BHTG: Tổ chức BHTG thông báo và yêu cầu tổ chức tín dụng khắc phục các vi phạm về việc tính và nộp phí BHTG, thông báo xử phạt và yêu cầu các tổ chức tín dụng chấp hành.

Đối với các TCTD vi phạm về an toàn trong hoạt động hoặc dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng:



báo.

+ Cơ quan giám sát đưa ra cảnh báo đối với các TCTD cần lưu ý.

+ Kiểm tra việc khắc phục, chỉnh sửa vi phạm của TCTD đã được thông


+ Theo dõi các TCTD cần lưu ý trong các kỳ giám sát tiếp theo.

+ Kịp thời kiến nghị và phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước

trong việc kiểm tra, đôn đốc các TCTD chấp hành các quy định về BHTG, về an toàn trong hoạt động ngân hàng, kiến nghị các cấp có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.

1.2.3.4 Công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động giám sát

Công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động giám sát là quá trình thu thập thông tin về trực trạng thực hiện hoạt động giám sát của cơ quan BHTG, xác định độ lẹch giữa thực trạng và yêu cầu giám sát để có những biện pháp can thiệp kịp thời, tránh sai sót và hậu quả đáng tiếc. Ngoài ra, công tác kiểm tra, kiểm soát cũng chỉ ra được những sai lệch trong hoạt động giám sát so với chính sách pháp luật, quy định của Nhà nước để kịp thời chấn chỉnh và sửa chữa.

Công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động giám sát thường được thực hiện thông qua: Phản hồi của các TCTD chịu sự giám sát; Lồng ghép vào công tác kiểm tra tại chỗ để đối chiếu, đánh giá kết quả giám sát; Các bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ.

Trên cơ sở kết quả kiểm tra, kiểm soát đánh giá hoạt động giám sát, đơn vị điều chỉnh các hoạt động thực hiện kế hoạch giám sát để hoạt động giám sát có chất lượng, hiệu quả và phù hợp với thực tế.

1.2.4 Quy trình giám sát các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi

Quy trình giám sát các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi bao gồm việc phân tích và đánh giá tình trạng tài chính định kỳ và các thông tin khác để xác định xem có cần phải tiến hành một cuộc kiểm tra đối với tổ chức đó hay không. Quy trình giám sát định kỳ thực hiện theo các bước liên tục như sau:

Bước 1: Thu thập, lưu trữ thông tin


Nguồn thông tin thu thập để phục vụ hoạt động giám sát là: báo cáo của các TCTD tham gia bảo hiểm tiền gửi; tiếp xúc trực tiếp với đối tượng giám sát; thông tin từ đơn vị khác thuộc NHNN; thông tin từ các nguồn khác ngoài NHNN.

Bước 2: Rà soát thông tin ban đầu

Bước này chủ yếu rà soát thông tin thu thập từ các TCTD về tính đầy đủ, chính xác, kịp thời của báo cáo. Qua quá trình rà soát, cán bộ giám sát sẽ có biện pháp xử lý phù hợp.

Bước 3: Phân tích, đánh giá

Sau khi thu thập đầy đủ thông tin, dữ liệu và kiểm tra tính chính xác của thông tin, cán bộ giám sát thực hiện phân tích, đánh giá việc chấp hành các quy định của pháp luật trong hoạt động các TCTD; đánh giá tình hình hoạt động theo các chỉ tiêu CAMELS và đánh giá rủi ro (gồm rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản) của từng TCTD.

Bước 4: Kết luận, xử lý thông tin

Sau khi tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia BHTG, bộ phận giám sát đưa ra kết luận về hoạt động và việc tuân thủ các quy định pháp luật của các TCTD; phát hiện và có những kiến nghị phù hợp xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng và vi phạm quy định của pháp luật về BHTG.

1.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi

1.3.1 Nhân tố khách quan

1.3.1.1 Nhóm nhân tố thuộc về môi trường vĩ mô

* Môi trường pháp lý

Môi trường pháp lý được hiểu là các quy định của pháp luật đối với hoạt động giám sát của BHTG. Môi trường pháp lý có những ảnh hưởng mang tính quyết định đến hoạt động giám sát. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các quốc

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/10/2022