Khi áp dụng Điều 4.1 và 4.2, cần xem xét tất cả các chi tiết xung quanh hợp đồng bao gồm:
….f. Tập quán;”
Đối với Bộ luật dân sự 2005, quy định áp dụng nguyên tắc áp dụng tập quán ở tầm mức chung đối với giải thích giao dịch dân sự tại Khoản c, Điểm 1, Điều 126:
“Trong trường hợp giao dịch dân sự có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây: …
c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập”
Và tiếp theo đó là quy định cụ thể đối với hợp đồng tại Khoản 4, và khoản 5 Điều 409:
“...4. Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu thì phải được giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng”.
5. Khi hợp đồng thiếu một số điều khoản thì có thể bổ sung theo tập quán đối với loại hợp đồng đó tại địa điểm giao kết hợp đồng...”
Ở đây, ta có thể thấy một điểm móc nối giữa hai điều khoản được coi là quan hệ cái chung cái riêng như đã phân tích, có thể xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề tập quán trong pháp lý.
Có thể bạn quan tâm!
- Một Hợp Đồng Phải Được Giải Thích Dựa Trên Ý Chí Chung Của Các Bên Trong Hợp Đồng Đó.
- Các Nguyên Tắc Áp Dụng Giải Thích Hợp Đồng Theo Ý Chí Tuyên Bố Của Các Bên
- Giải Thích Trên Cơ Sở Mối Liên Hệ Các Điều Khoản Được Thể Hiện Trong Hợp Đồng Và Phù Hợp Toàn Bộ Nội Dung Hợp Đồng.
- Giải Thích Theo Nguyên Tắc Có Lợi Cho Bên Yếu Thế.
- Những Đề Xuất Về Hướng Hoàn Thiện Các Quy Định Về Giải Thích Hợp Đồng
- Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành - 13
Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.
Theo PICC thì việc quy định áp dụng tập quán (tại Điểm f, Điều 4.3) được coi là là một trong các yếu tố quan trọng nhất tuy không phải là duy nhất để xác định, trong việc áp dụng cách giải thích “khách quan”.
Đối với Bộ luật dân sự 2005, thực chất Khoản 5, Điều 409 thì ở đây phải xác định được hợp đồng đó là loại hợp đồng nào, và từ đó mới bổ sung điều khoản theo tập quán, như vậy ta có thể tiếp cận điều khoản này bằng cách nhóm
gộp với nguyên tắc bổ sung căn cứ vào tính chất của hợp đồng, tuy nhiên điểm phân biệt rõ ràng với nguyên tắc bổ sung ở trên đó là loại điều khoản bổ sung ở đây là các điều khoản mang yếu tố tập quán, tức là dựa vào các tập quán được coi là nguồn luật để bổ sung vào hợp đồng. Khác với các điều khoản mang tính chất đặc trưng với từng loại hợp đồng. Theo đó, Khoản 4, Điều 409 là nguyên tắc giải thích hợp đồng độc lập với các nguyên tắc giải thích khác tại Điều 409 này. ở đây, độc lập được hiểu theo nghĩa xét nội hàm, cách thức giải thích hợp đồng dựa trên căn cứ nào.
Đối với nội dung nguyên tắc này, các vấn đề đặt ra đó là: tập quán là gì, có những loại tập quán nào được sử dụng trong hoạt động giải thích hợp đồng. Mối tương quan giữa tập quán với quy định của pháp luật trong hoạt động giải thích hợp đồng.
Về cơ bản tập quán được hiểu dựa trên những nét cơ bản là những phương thức ứng xử giữa người với người đã được định hình và được xem như một dấu ấn, một điểm nhấn tạo thành nề nếp, trật tự trong lối sống của cá nhân trong quan hệ nhiều mặt tại một cộng đồng dân cư nhất định. Tập quán dưới góc độ là một thuật ngữ pháp lý, đã được tiếp cận và xây dựng trong nhiều công trình khoa học và cách thức tiếp cân khác nhau. Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam thì thuật ngữ này được quy định rải rác tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Tại Điểm b, tiểu mục 2.7 mục 2 Phần II Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về chứng minh và chứng cứ đã nêu định nghĩa về tập quán như sau: “Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo như một quy ước chung của cộng đồng”.
Còn theo quy định của Luật Thương mại Việt Nam 2005, Điều 3, Khoản 4, thì xác định tập quán (tập quán thương mại) được xác định là thói quen ứng xử mà có các điều kiện sau: (1) được thừa nhận rộng rãi trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực nhất định; (2) có nội dung rõ ràng, và (3) được các bên mặc nhiên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại.
Dưới góc độ nghiên cứu, nhìn chung ta chỉ có thể có thể gói gọn các quan điểm về tập quán (mặc dù vấn đề tập quán trở thành nguồn luật còn rất nhiều ý kiến về cách thức áp dụng, về khái niệm, các điều kiện tồn tại để trở thành tập quán pháp, chủ thể chứng minh, chứng minh như thế nào...) qua việc liên hệ tới một loại nguồn của pháp luật hay tập quán pháp mà ở đó bao gồm các quy tắc ứng xử được thiết lập trong hoàn xã hội cụ thể. Tập quán pháp có điều kiện tồn tại là khi có một thói quen pháp lý chắc chắn được tôn trọng và những người liên quan xem nó là luật. Nhận biết tập quán qua 2 điều kiện: (1) điều kiện có tính cách vật chất, có nghĩa là biện pháp ứng xử được nhiều người làm theo trong một khoảng thời gian nhất định, miễn là không gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người khác, và (2) điều kiện có tính cách tâm lý thể hiện ở việc những người thực hiện nó với sự tin chắc và mặc nhiên coi đó là sự quy định quyền và nghĩa vụ của mình [9, tr.163].
Đối với việc chứng minh tập quán được sử dụng thì thông thương bên viện dẫn sự tồn tại của bất kỳ quy tắc tập quán hay thói quen ứng xử nào có nghĩa vụ chứng minh nó [9, tr.165]. Việc chứng minh này có thể dựa vào các tài liệu lưu giữ tập quán, dựa vào nhân chứng tại địa phương hay các giám định viên hoặc chuyên gia.
Việc sử dụng nguyên tắc áp dụng tập quán trong quá trình giải thích hợp đồng dựa trên các điều kiện nhất định. Theo sự dẫn giải của Vacaxum và Tori
Aritdumi đối với Bộ luật dân sự của Nhật Bản thì các bên hợp đồng cần thể hiện ý chí dựa trên tập quán và công nhận nó,như vậy, nếu chứng minh được khi ký kết hợp đồng, các bên sử dụng hoặc tuân thủ theo tập quán của địa phương khác, không như theo thỏa thuận thì sẽ không áp dụng phương pháp này để giải thích hợp đồng [64,tr.121]. Tuy nhiên điểm chưa hợp lý ở đây đó là nếu như có sự thỏa thuận thì liệu có phải là áp dụng tập quán hay là sự áp dụng ý chí chung của các bên vì các bên đã tự do thỏa thuận áp dụng tập quán địa phương . Tiếp theo phân tích của Vacaxum và Tori Aritdumi cho rằng tập quán hiện hành được xã hội thừa nhận tại từng địa phương, từng lĩnh vực sản xuất hoặc giữa những người cùng nghề ,có hiệu lực như các quy định pháp luật. Tất nhiên trên cơ sở tập quán không được trái với trật tự công cộng, đạo đức xã hội và các quy định cấm của pháp luật [64,tr.121].
Bộ luật dân sự Pháp thì tại điều 1159 “Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ không rõ ràng, thì phải giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng”, trên cơ sở này, Vũ Văn Mẫu diễn giải đối với việc áp dụng tập quán trong quá trình giải thích hợp đồng theo hệ thống dân luật của Pháp thì “tập quán sẽ thay đổi tùy theo bản chất của mỗi khế ước và nghề nghiệp của các người kết ước. Đối với những người kết ước có nghề nghiệp, các điều khoản thuộc về tập quán có hiệu lực hơn là đối với người thường, vì mỗi nghề có những lệ riêng” [38,tr.266]. Tuy nhiên, cách diễn giải này còn tương đối bó buộc, vì thực tế việc đánh giá hiệu lực hơn đối với nhóm nghề nghiệp hay cùng lĩnh vực sản xuất cũng rất khó khăn trong thực tiễn. Hiệu lực áp dụng đối với tập quán trong phạm vi địa phương cũng có giá trị rất lớn trong giải thích hợp đồng cũng là một trong các trường hợp khác.
Quy định của PICC cũng khá chặt chẽ khi hướng dẫn áp dụng nguyên tắc áp dụng tập quán để giải thích hợp đồng phải thỏa mãn những yêu cầu cụ thể về tập quán và quy ước tại Điều 1.8 của Bộ nguyên tắc. Cụ thể là phải thỏa mãn tập quán đó (1) Các bên đã nhất trí và các quy ước đã được xác định và ngầm hiểu;
(2) Các tập quán phổ biến và thiết thực trong hoạt động mua bán của các chủ thể thuộc cùng lĩnh vực buôn bán, trừ khi việc áp dụng tập quán đó và hợp đồng là phi lý.
Như vậy, nhìn chung có thể thấy việc áp dụng Nguyên tắc căn cứ vào tập quán của các bên giao kết cần dựa trên các cơ sở và phạm vi nhất định:
Thứ nhất, để được coi là tập quán thì các định lệ này phải được công nhận tại từng nơi, từng lĩnh vực sản xuất hoặc giữa những người cùng nghề nghiệp.
Thứ hai, áp dụng dụng tập quán khi ký kết hợp đồng thì các bên đã thể hiện ý chí dựa trên tập quán. Trong trường hợp không có sự thể hiện ý chí, chỉ có 2 trường hợp được xác định áp dụng tập quán khi giải thích đó là (1) Đó là tập quán mà mọi người biết đến và được công nhận chính thức trong thương mại quốc tế của một giao dịch nào đó hoặc (2) tập quán trong địa phương nhưng được áp dụng khi mà đối tác nước ngoài biết đến và tôn trọng.
Về cách thức áp dụng tập quán, tùy theo quy định của mỗi nền tài phán, ta có các cách áp dụng theo thứ tự khác nhau, đối với Việt Nam, có ý kiến cho rằng thông thường nguyên tắc này thường được áp dụng sau khi đã cân nhắc các nguyên tắc khác xuất phát từ quan điểm đánh giá không cao về nguồn gốc và vai trò của tập quán pháp, khi cho rằng: “Vì vậy, về mặt nguyên tắc hình thức tập quán pháp không có khả năng thể hiện được bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa, không thể trở thành một hình thức cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa” [31,tr.19]. Trong khi đó đối với thực tiễn áp dụng Công ước Viên về mua
bán hàng hóa Quốc tế 1980 thì thể hiện trong một số trường hợp thì tập quán được ưu tiên áp dụng hơn các quy định của Công ước quốc tế.
2.2.5. Giải thích theo nguyên tắc điều hòa lợi ích của các bên.
Nguyên tắc giải thích theo nguyên tắc điều hòa lợi ích của các bên được quy định tại Khoản 2 Điều 409 Bộ luật dân sự 2005: “Khi một điều khoản của hợp đồng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa thì phải chọn nghĩa nào làm cho điều khoản đó khi thực hiện có lợi nhất cho các bên”.
Cơ sở xây dựng nguyên tắc giải thích hợp đồng này xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng được quy định tại Điều 5, BLDS 2005. Đây là nguyên tắc căn bản đối với các chế định trong lĩnh vực dân sự, đối với quan hệ hợp đồng nó thể hiện ở vai trò đảm bảo yếu tố cân bằng lợi ích của các bên tham gia giao kết hợp đồng, không có bất cứ lí do gì (điều kiện kinh tế, hoàn cảnh, trình độ hay mức độ chuyên sâu về lĩnh vực nghề nghiệp, thành phần xã hội...) để đối xử không bình đẳng đối với bên nào tham gia giao kết hợp đồng. Chính từ yêu cầu đó, hoạt động giải thích hợp đồng cần phải đảm bảo yếu tố cân bằng lợi ích cho các bên mà đòi hỏi cách thức áp dụng các biện pháp giải thích cụ thể phải thật hợp lý, dựa trên các căn cứ cụ thể như: xác định các mục đích, yêu cầu lợi ích riêng của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng, từ đó phân tích những mục đích ưu tiên, cân đối và giải thích hợp đồng theo hướng phù hợp nhất đối với thực tế và đảm bảo các bên vẫn thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng. Ví dụ, A và B tham gia giao kết hợp đồng mua bán một xe ô tô, theo đó hợp đồng có điều khoản quy định hợp đồng có hiệu lực kể từ ngày ký và bên B giao cho A số tiền đặt cọc là 5% giá trị ô tô sau 10 ngày ký hợp đồng này. Tuy nhiên sau 10 ngày B chưa thể giao tiền cho A, A yêu cầu bên B bồi thường số tiền tương ứng với số tiền bảo dưỡng, bảo trì, trông giữ xe... (các chi phí này không được đề cập tới
trong hợp đồng) kể từ ngày ký kết hợp đồng, tuy nhiên bên B chỉ đáp ứng số tiền phát sinh từ ngày thứ 10 sau thời điểm ký kết hợp đồng. Như vậy, khi giải thích hợp đồng, cụ thể là giải thích điều khoản về hiệu lực là điều khoản không rõ ràng, để đảm bảo lợi ích các bên, thẩm phán có thể sử dụng biện pháp mỗi bên A và B đều chi trả một phần số tiền bên A yêu cầu theo tỉ lệ tương xứng mà hai bên chấp nhận được.
Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ thường được sử dụng với vai trò làm quy chuẩn đảm bảo yếu tố bình đẳng giữa các bên tham gia giao kết hợp đồng, trong quá trình giải thích, chủ thể giải thích sẽ ưu tiên xem xét sử dụng các biện pháp khác (như xác định mục đích, tính chất hợp đồng, hoặc áp dụng tập quán trong giải thích ...) nhưng vẫn phải đảm bảo yếu tố điều hòa lợi ích các bên, vì có như vậy hợp đồng mới có thể tiếp tục được thực hiện. Điểm khó khăn khi áp dụng trực tiếp nguyên tắc này mà không hỗ trợ bởi các biện pháp khác nằm ở chỗ, thông thường thì ta sẽ đặt ra vấn đề giải thích hợp đồng khi mà có trường hợp nội dung văn bản tối nghĩa mập mờ hoặc quy định thiếu hoàn chỉnh, nếu như căn cứ tìm ý chí thật, bản thân việc giải thích hợp đồng là nhằm xác định rõ những nội dung thỏa thuận ban đầu giữa các bên, nguyên nhân có thể xuất phát từ sự cẩu thả, thiếu sót hoặc nhầm lẫn trong sự thể hiện ý chí của mình... từ đó khi thực hiện hợp đồng có thể dẫn đến những xung đột về lập trường, chính từ sự bảo trong lập trường của các bên làm cho mỗi bên cảm thấy đang phải thực hiện ý chí của phía còn lại, trong khi các quyền lợi của mình bị xem nhẹ hoặc không được chú ý đến. Như vậy, việc giải thích hợp đồng dựa trên nguyên tắc điều hòa lợi ích của các bên xác định rõ hai vấn đề.
Thứ nhất, phải xác định rõ việc giải thích ở đây căn bản dựa trên lợi ích của các bên chứ không phải ý muốn chủ quan được diễn giải của bất cứ bên nào,
cần phải nhắm tới rõ vấn đề cơ bản ở đây là sự xung đột giữa ý chí tham gia hợp đồng của các bên. Từ việc xác định căn bản vấn đề cần hướng tới khi giải thích hợp đồng, từ đó thẩm phán có thể sử dụng các biện pháp nhằm cân bằng lợi ích của các bên, từ việc xác định được rõ mức độ tổn hại lợi ích của các bên, xác định được rõ ràng các mục tiêu cần theo đuổi và những mục tiêu có thể nhượng bộ của các bên tham gia hợp đồng, trên cơ sở quy chế pháp lý liên quan tới hợp đồng đó.
Thứ hai, việc giải thích hợp đồng trong các trường hợp cần thiết phải áp dụng nguyên tắc này bản chất là biện pháp nhằm tìm kiếm và xác định phương án đôi bên cùng có lợi. Thực tế, để đảm bảo yếu tố này cực kỳ khó khăn vì khi đã xảy ra tranh chấp vì nội dung của hợp đồng có nghĩa là các bên dường như đã quan tâm đến lợi ích của mình một cách tuyệt đối hơn, như vậy thẩm phán cần xem xét các biện pháp xác định các lợi ích chung ngay trong nội dung tranh chấp của hợp đồng, hoặc xác định các biện pháp càng ít gây phương hại cho các bên tham gia hợp đồng. Phương pháp này căn bản đòi hỏi sự nhạy bén và kỹ năng của thẩm phán, cách thức áp dụng đa dạng và am hiểu thực tiễn của lĩnh vực hợp đồng.
Có thể nhận thấy, đây là nguyên tắc ít khi xuất hiện trong các bộ luật hay các công ước quốc tế về hợp đồng. Xuất phát từ những khó khăn thực tiễn của phương pháp này, tất nhiên dựa trên nền tảng tôn trọng lợi ích của các bên tham gia quan hệ tư, việc quy định nguyên tắc này là có cơ sở. Tuy nhiên, thực sự rất khó khăn để đảm bảo đủ các yếu tố đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc này trong quá trình giải thích hợp đồng, vì trong quá trình giải thích hợp đồng việc thẩm phán chọn lựa khả năng gây bất lợi cho cả đôi bên sẽ có ít khả năng xảy ra, mặc dù đãchọn phương án hạn chế tối đa, vì về tương quan các bên tham gia hợp