Hoàn Thiện Hành Lang Pháp Lý Về Xử Lý Nợ Của Nhtm‌


Công ty và các doanh nghiệp có vốn nhà nước khác; đảm bảo hệ thống thông tin này là một trong những căn cứ tin cậy được sử dụng trong quản lý, giám sát thực hiện chức năng chủ sở hữu DNNN ở cấp vĩ mô (các bộ, ngành, Chính phủ, Quốc hội). Theo đó, thông tin về DNNN bao gồm: Danh sách, số lượng DNNN; ngành nghề kinh doanh chính; vốn nhà nước; vốn đầu tư; kết quả và hiệu quả kinh doanh.


3.3.2.2. Nâng cao năng lực vốn cho các NHTM


Nghị định 141/2006/ND-CP, yêu cầu tất cả các NHTM phải có vốn điều lệ tối thiểu là 3.000 tỷ đồng (tương đương 150 triệu USD) vào cuối năm 2010, tuy nhiên sau đó lại cho phép kéo dài thời hạn đến hết năm 2011. Mặc dù vậy, đến hết năm 2011 vẫn còn 05 ngân hàng chưa đáp ứng được điều kiện này.


Chính do sức ép phải tái cơ cấu theo lộ trình nên các ngân hàng nhỏ đã tìm các tăng trưởng tín dụng nóng, tập trung vào lĩnh vực bất động sản, chứng khoán nhiều rủi ro. Các ngân hàng này thường xuyên đối mặt với tình trạng thiếu thanh khoản và sử dụng công cụ lãi suất cao để cạnh tranh về huy động vốn hoặc vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất có khi lên đến 30 - 40%/năm. Điều này đã làm cho thị trường tiền tệ luôn bất ổn, ảnh hưởng không nhỏ đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN.


Do vậy trong lộ trình tăng vốn pháp định, cần kiên quyết loại bỏ các ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, kinh nghiệm quản trị nội bộ kém, nhân sự và hạ tầng công nghệ thông tin hạn chế. Do vậy Nhà nước cần có quy định cụ thể và bắt buộc trong việc tăng vốn tự có của các NHTM nhằm tăng thêm tiềm lực tài chính, tăng khả năng cạnh tranh và sức đề kháng của hệ thống ngân hàng trước những biến động của thị trường . Việc tăng vốn về nguyên tắc, các NHTM có thể tăng vốn thông qua các kênh:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.


i) Tăng vốn Ngân sách Nhà nước cấp (đối với các NHTM nhà nước);

Giải pháp xử lý nợ xấu cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam - 13


ii) Cổ phần hóa NHTM Nhà nước;


iii) Phát hành thêm cổ phiếu mới (đối với các NHTMCP);


iv) Chỉ đạo và giám sát việc sáp nhập, hợp nhất các NHTM.


Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là việc tăng vốn phải đi kèm với tăng cường năng lực quản trị thì mới tận dụng được tính kinh tế nhờ qui mô. Nếu không đảm bảo được yêu cầu này thì việc tăng vốn sẽ rất có thể dẫn tới làm giảm hiệu quả, suy yếu năng lực cạnh tranh của chính NHTM. Mức vốn pháp định bắt buộc được đưa ra dựa trên các tiêu chuẩn an toàn vốn cũng như tốc độ tăng trưởng tài sản có của các tổ chức tín dụng.


Thứ nhất, là tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR), nhằm đảm bảo rủi ro tài sản của ngân hàng phải được cân đối bằng nguồn vốn tự có. Cách thức đánh giá tỷ lệ này được định nghĩa rò ràng thông qua Hiệp ước Basel - phương pháp ước định mức lượng rủi ro mà ngân hàng phải chịu và quy định mức vốn ngân hàng phải có để có thể kiểm soát được rủi ro.


Thứ hai, là đảm bảo rằng phải có yêu cầu về mức vốn tối thiểu cho các ngân hàng, giúp mỗi ngân hàng có đủ “lượng vốn cần thiết” để có thể hoạt động hiệu quả. Điều này nhằm đảm bảo trên thị trường sẽ không có quá nhiều các ngân hàng rất nhỏ hoạt động không hiệu quả vì quy mô vốn của họ.


Điều cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng đó là cần đảm bảo nguồn vốn của ngân hàng được phân bổ một cách hiệu quả, tức là các ngân hàng không nên có lượng vốn “dư thừa” nếu không sẽ làm mất đi sự hấp dẫn của chính mình.


3.3.2.3. Hoàn thiện hành lang pháp lý về xử lý nợ của NHTM‌


Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý để các ngân hàng thương mại có quyền tự chủ đứng ra tổ chức bán tài sản cầm cố thế chấp để thu hồi vốn đối với các khoản nợ quá hạn (theo như điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng), đặc biệt có thể có các chính sách ưu tiên đối với những khoản nợ


khó thu hồi phát sinh như miễn thuế doanh thu, thuế quyền sử dụng đất, chỉ thu phí dịch vụ bán đấu giá một lần khi bán được tài sản cầm cố, thế chấp trong trường hợp phát mại tài sản qua các trung tâm bán đấu giá. Phí này theo quy định của pháp luật, bên vay phải thanh toán nhưng đối với nợ quá hạn phải xử lý thế chấp để thu hồi nợ thì phần lớn khách hàng không còn khả năng thanh toán, do đó sẽ phải trừ vào số tiền thu được từ việc bán đấu giá tài sản cầm cố, thế chấp này sẽ ảnh hưởng đến vấn đề thu nợ của Ngân hàng. Mặc dù các văn bản pháp quy đã quy định tỷ lệ hợp pháp giữa giá trị tài sản cầm cố, thế chấp và mức cho vay ban đầu để đảm bảo thu nợ gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn và các chi phí phát sinh. Nhưng trên thực tế thì hiện nay diễn biến của thị trường bất động sản đã ảnh hưởng không ít đến giá trị tài sản cầm cố, thế chấp đặc biệt là sự giảm giá của thị trường bất động sản trong giai đoạn hiện nay. Thực tế đến nay gần như các khoản nợ quá hạn được thu hồi từ việc xử lý tài sản thế chấp đều được thực hiện bằng cách: Khách hàng và ngân hàng thoả thuận bán có sự giúp đỡ của chính quyền địa phương. Để xử lý theo hướng trên thì ngân hàng cần phải hoàn toàn linh động trong việc xử lý tài sản thế chấp và phải có sự đồng tình ủng hộ của các cơ quan hữu quan cùng với sự tự giác nhất định từ phía khách hàng.


Từ đó cho thấy sự cần thiết phải xây dựng cơ chế xử lý TSBD thực sự hiệu quả, tiết kiệm chi phí và công sức cho các bên. Đề nghị Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành có liên quan cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn về vấn đề này, trong đó đặc biệt là các nội dung như: tăng khả năng tiếp cận hợp pháp TSBD từ phía bên nhận bảo đảm; việc thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu cho bên mua, bên nhận chính TSBD; sự hỗ trợ của các cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo đảm thực thi thỏa thuận về xử lý TSBD...Đặc biệt là pháp luật tố tụng trong giải quyết các vụ kiện yêu cầu xử lý TSBD cần được rút gọn.


3.3.2.4. Phát triển thị trường mua bán nợ


Năm 2003, Chính phủ cho phép thành lập Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC), có trụ sở tại Hà Nội. Nhiệm vụ của công ty là mua các khoản nợ và tài sản tồn đọng của các doanh nghiệp, kể cả quyền sử dụng đất mà các DN sử dụng để bảo đảm cho các khoản nợ.


Việc ra đời của Công ty mua bán nợ đã tạo công cụ mới thích hợp với nền kinh tế thị trường, giúp các doanh nghiệp xử lý nợ và tài sản tồn đọng, giúp làm lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp. Nhờ đó thúc đẩy nhanh hơn quá trình sắp xếp, cổ phần hóa DN, thúc đẩy tiến trình hình thành, phát triển TTCK, thị trường tài sản…Tuy nhiên, theo nhận định của giới kinh doanh và quản lý, chỉ với một đơn vị mua bán nợ như vậy chưa đủ đáp ứng cho tình trạng nợ xấu thành căn bệnh trầm kha lâu nay.


Chính vì vậy DATC cần chủ động nghiên cứu và đề xuất nhiều giải pháp hơn nữa nhằm thực sự đóng vai trò quan trong giải quyết nợ xấu của NHTM như:


- Chứng khoán hóa các khoản nợ: Đây là cách thức xử lý khá phổ biến theo thông lệ thế giới. Đối với Việt Nam, từ trước tới nay đã có rất nhiều trường hợp thành công, thể hiện không những cứu được doanh nghiệp khỏi nguy cơ giải thể phá sản mà còn bảo toàn được nguồn vốn của các NHTM. Sau khi chuyển đổi, NHTM rất dễ dàng tìm được người mua là các nhà đầu tư chiến lược bởi khi các NHTM chào bán các khoản nợ xấu, các nhà đầu tư chiến lược rất ngần ngại mua để trở thành chủ nợ mới vì sau khi mua họ khó có khả năng kiểm soát doanh nghiệp nhưng nếu nắm cổ phần đa số họ sẽ dễ dàng thực hiện được các phương án tái cấu trúc cũng như thay đổi phương thức quản trị doanh nghiệp. Giải pháp này sẽ được thực hiện theo những phương pháp dưới đây:


- Đối với các doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc do tình hình kinh tế khó khăn, do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động…thì DATC có thể xem xét chuyển 1 phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn, nhằm hỗ trợ thanh khoản cho doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp tồn tại phát triển;


- Hoặc chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần và chuyển vị thế các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn, cổ đông nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển.


- DATC sẽ phát hành các DATC notes: Khi mua/tiếp nhận nợ xấu, DATC sẽ trả cho các ngân hàng một phần hợp lý bằng tiền mặt và phần còn lại (chênh lệch giữa mệnh giá nợ trừ đi dự phòng đã trích và số tiền được thanh toán) được DATC trả bằng DATC-Notes có thời hạn 5 - 7 năm. Trái phiếu ghi nợ này được coi là một tài sản tài chính, ngân hàng sẽ hạch toán theo mệnh giá, nên không làm phát sinh lỗ ngay lập tức do bán nợ xấu như cơ chế mua bán thông thường và như thế sẽ khuyến khích ngân hàng bán nợ. Hàng năm, DATC sẽ định giá và ngân hàng sẽ ghi nhận lại giá trị DATC-Notes theo thông báo của DATC và nếu bị giảm giá thì phần giảm được hạch toán vào chi phí. Tiền thu hồi từ các khoản nợ xấu được dùng để bù đắp số tiền mặt DATC đã trả, phần lời ra được chia sẻ một phần cho ngân hàng và phần còn lại là lợi nhuận DATC thu về. Ngoài ra, DATC có thể dùng các DATC-Notes để yêu cầu NHNN nắm giữ và tái cấp vốn khi cần duy trì thanh khoản cho ngân hàng.


Mô hình Quỹ và cơ chế DATC-Notes đã được áp dụng thành công ở nhiều nước. Với thực tế Việt Nam, mô hình này cũng có tính khả thi cao, cụ thể:


Thứ nhất, giúp xử lý nợ xấu trên quy mô lớn, tạo an toàn thanh khoản cho toàn hệ thống tài chính với nguồn kinh phí thấp nhất.


Thứ hai, giúp tái cơ cấu để phục hồi hoạt động cho hàng chục ngàn DN mắc nợ, đặc biệt là các DNNN thực hiện đề án tái cơ cấu.


Thứ ba, để vừa chống suy thoái kinh tế, vừa không làm mất đi các nguồn lực sẵn có, vừa duy trì công ăn việc làm cho người lao động để ổn định chính trị xã hội. Thứ tư, với vai trò công cụ chính sách, DATC có cơ chế để mua và xử lý nợ xấu với quy mô


lớn bằng nguồn tiền được xã hội hóa; qua đó, để Nhà nước thể hiện rò ràng hơn vai trò dẫn dắt nền kinh tế đi qua giai đoạn khó khăn.


3.3.2.5. Thành lập Quỹ mua bán nợ xấu Doanh nghiệp‌


Mặc dù trong thực tế, hoạt động mua bán nợ đã và đang có nhiều doanh nghiệp và ngân hàng vẫn xúc tiến thoả thuận mua bán nợ, nhưng không công bố, cũng đang có nhiều doanh nghiệp chuyển nợ cho các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh hơn như một sự thoả thuận. Như vậy, cung cho thị trường mua bán nợ đã có và điều các doanh nghiệp quan tâm nhất hiện nay là có người mua nợ xấu.


Trong tình trạng nguy ngập, phá sản, đình trệ sản xuất của doanh nghiệp hiện nay, Nhà nước nên thành lập Quỹ mua nợ xấu doanh nghiệp để mua nợ những doanh nghiệp có thị trường, có công nghệ tiên tiến, có hoạt động sản xuất kinh doanh quy mô lớn, sử dụng nhiều nhân công lao động.., qua đó giúp doanh nghiệp tiếp cận được vốn ngân hàng, trở lại hoạt động, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Khi hồi phục và tăng trưởng tốt, doanh nghiệp có thể niêm yết cổ phần trên TTCK, Nhà nước có thể bán cổ phiếu và thu hồi vốn đã mua nợ.


Quỹ mua bán nợ xấu doanh nghiệp phải được sự hỗ trợ vốn từ phía nhà nước, Để bảo đảm cho Quỹ này hoạt động, nhà nước cũng cần có sự hỗ trợ của các cơ chế, đảm bảo tính thanh khoản, và sự thống nhất, đồng bộ với việc hoàn thiện hoặc điều chỉnh các Luật có liên quan như Luật phá sản, pháp luật định giá…


Nguồn vốn để đảm bảo cho quỹ này hoạt động có thể từ nguồn ngân sách nhà nước và/hoặc từ nguồn trái phiếu do NHNN hoặc Chính phủ sẽ phát hành.


3.3.2.6. Giải pháp khơi thông thị trường bất động sản


NHNN cho biết tại thời điểm 30/06/2012, khoảng 84% nợ xấu của hệ thống ngân hàng được đảm bảo bằng tài sản thế chấp và tổng giá trị của các tài sản thế chấp này bằng 135% nợ xấu.


Như vậy, trong tổng số nợ xấu 232.100 tỷ đồng tại thời điểm 30/09/2012, có

195.000 tỷ đồng được bảo đảm bằng tài sản thế chấp (chủ yếu là BĐS) xấp xỉ

263.250 tỷ đồng, tương đương 135% nợ xấu. Bên cạnh đó, hiện cả nước tồn kho khoảng 70.000 căn hộ của các doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh BĐS, nếu giá một căn hộ khoảng 1.5 tỷ thì số vốn khoảng 105.000 tỷ đồng sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao tính thanh khoản của hệ thống NHTM.


Do vậy việc khơi thông thị trường bất động sản sẽ là một trong những giải pháp quan trọng góp phần xử lý nợ xấu cho hệ thống NHTM Việt Nam. Người viết xin kiến nghị một số giải pháp sau:


i) Giảm giá bất động sản: Trong những năm trước đây, giá BĐS tăng quá cao trong thời gian thị trường nóng sốt. Do vậy các doanh nghiệp quá chú trọng triển khai các dự án trung cấp và cao cấp, phân khúc ít người có khả năng mua để ở. Vì thế, muốn gỡ khó thị trường phải dịch chuyển vào phân khúc có khả năng thanh toán. Vì vậy các doanh nghiệp bất động sản cần cơ cấu lại sản phẩm, xây dựng lại chiến lược giá thành phù hợp với khả năng chi trả của đại bộ phận người dân. Tuy nhiên giải pháp này cần có sự tham gia của nhiều Bộ, ngành, doanh nghiệp có liên quan. Cụ thể như sau:


- Về phía nhà nước: Thực tiễn cho thấy những ngành kinh tế trên đang gặp khó khăn nhất, đồng thời nợ xấu cũng nhiều nhất. Do vậy, chính phủ cần rà soát và điều chỉnh chính sách hỗ trợ (giãn thuế, điều chỉnh tiền sử dụng đất…). Cụ thể là giảm 50% thuế GTGT cho các ngành kinh tế đang gặp khó khăn như xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, kinh doanh bất động sản…Việc giảm 50% thuế GTGT cho các ngành này sẽ giúp cho việc giảm giá thành xây dựng nhà ở sẽ kích thích doanh số của các ngành này tăng nhanh. Bên cạnh đó, đối với người mua căn hộ chung cư lần đầu để ở cũng nên áp dụng chính sách này nhằm tăng tính thanh khoản cho thị trường.


- Về phía doanh nghiệp: Chấp nhận giảm lãi hoặc chấp nhận lỗ, đồng thời doanh nghiệp bất động sản phải chủ động cơ cấu sản phẩm vào phân khúc có giá mềm hơn, phục vụ số đông.


- Về phía Ngân hàng: Thực hiện chính sách giảm lãi suất cho vay mua nhà để ở. Việc giảm lãi suất cho các khoản tín dụng cho khách hàng vay có nhu cầu nhà ở thực sự để khai thông thị trường này chính là hướng đến những đối tượng có nhu cầu nhà ở thật sự với những dự án vừa phải có mức giá phù hợp. Bên cạnh chính sách hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp bất động sản thì chính sách hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho người có nhu cầu nhà ở thật sự cũng là điều hết sức cần thiết. Bởi nó không chỉ tạo nguồn ra tốt cho doanh nghiệp mà còn giải quyết được nhu cầu bức thiết về nhà ở cho người dân hiện nay. Khơi thông thị trường bất động sản cũng sẽ góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tạo nhiều cơ hội tốt trong kinh doanh và guồng quay của nền kinh tế cũng sẽ vận động nhịp nhàng hơn.


ii) Thành lập Quỹ tiết kiệm nhà ở: Đây là kênh huy động tài chính dài hạn cho phát triển nhà ở theo hai mô hình như sau:


- Mô hình I: Quỹ tiết kiệm nhà ở chuyên phục vụ cho người có thu nhập thấp vay mua, thuê mua nhà ở xã hội hoặc cho doanh nghiệp vay đầu tư xây dựng nhà ở thu nhập thấp, nhà ở công nhân và đầu tư phát triển nhà ở xã hội. Lãi suất huy động bằng khoảng 1/2 lãi suất vay thương mại, người vay phải trả đều hàng tháng trong thời hạn tối thiểu là 15 năm.


- Mô hình II: Quỹ tiết kiệm nhà ở áp dụng cho người có thu nhập trung bình vay để mua nhà ở thương mại. Quỹ sẽ do Ngân hàng thương mại hoặc Ngân hàng chuyên về tiết kiệm nhà ở quản lý, vận hành theo quy định của Nhà nước. Sau khi tham gia đóng quỹ được khoảng 50% giá trị nhà ở cần mua, người tham gia đóng quỹ sẽ được vay thêm 50% giá trị của nhà ở còn lại. Lãi suất cho vay theo nguyên tắc thỏa thuận, ổn định và bằng lãi tiền gửi cộng thêm một khoản phí (thông thường từ 1,5% đến 1,7%).

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 06/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí