Kết Quả Xử Lý Nợ Xấu Đến Ngày 30/09/2012 (Đvt: Tỷ Vnd)


Qua 05 biện pháp xử lý nợ xấu trên thì tính đến 30/09/2012, các biện pháp xử lý nợ thông qua thị trường mua bán nợ chưa thực sự đạt được kết quả mong muốn khi thị trường mua bán nợ chưa phát triển và thị trường chứng khoán chưa khởi sắc.


Xử lý nợ xấu thông qua xử lý tài sản thế chấp: Kết quả của biện pháp này còn chậm do các nguyên nhân về sự trầm lắng của thị trường BĐS và các thủ tục xử lý nợ theo quy định của pháp luật còn chưa thực sự giúp đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ.


Bảng 10: Kết quả xử lý nợ xấu đến ngày 30/09/2012 (ĐVT: Tỷ VND)


Giải pháp

Kết quả

1. Cơ cấu lại

252.000

2. Trích lập dự phòng

75.000

3. Đã xử lý rủi ro

12.000

Tổng cộng

339.000

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

Giải pháp xử lý nợ xấu cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam - 11

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ website của NHNN tại: http://www.sbv.gov.vn.


Xử lý nợ xấu bằng nguồn xử lý rủi ro: Theo số liệu Thống đốc công bố, bản thân các TCTD dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của NHNN đã trích lập dự phòng rất tốt, từ đầu năm đến nay hệ thống ngân hàng đã trích lập dự phòng mới tăng 14.000 tỷ đồng, đưa tổng số dư trích lập dự phòng rủi ro đến nay (cả chung và riêng xấp xỉ 75.000 tỷ đồng), các TCTD đã xử lý được 12.000 tỷ đồng nợ xấu từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro của mình.


Xử lý nợ xấu thông qua cơ cấu lại các khoản nợ hoặc giãn nợ: Trong tháng 4/2012 vừa qua NHNN đã ban hành văn bản 780 về cơ cấu nợ cho Doanh nghiệp và đã đem lại kết quả là đến đến 30/06/2012 tổng số nợ cơ cấu lại chỉ khoảng hơn 36.000 tỷ thì đến 30/09/2012, số nợ được cơ cấu lại lên đến 252.000 tỷ đồng.


Xử lý nợ xấu bằng chuyển nợ xấu thành vốn góp, vốn cổ phần: Đây là một trong những biện pháp cuối cùng mà các NHTM áp dụng, đặc biệt là trong trường hợp Doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán, tuy nhiên có thế mạnh và giá trị về thương hiệu và thị trường nên các NHTM, cùng với DATC đã tham gia vào tái cơ cấu lại Doanh nghiệp. Ngoài việc chuyển nợ thành vốn góp hoặc vốn cổ phần, quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp còn cần đến chính sách gia hạn, giãn nợ hoặc khoanh nợ…Một số doanh nghiệp đã được tái cơ cấu thông qua hình thức này là: Công ty cổ phần thủy sản Bình An (Bianfishco) với tổng số nợ tại các NHTM xấp xỉ 1.000 tỷ đồng và Công ty Cổ phần thủy sản phương Nam với số dư nợ 1.600 tỷ đồng.


Qua kết quả xử lý nợ xấu như trên là khá tốt, tuy nhiên vấn đề đặt ra là số liệu nợ xấu thực tế đã xử lý được thông qua việc cơ cấu lại và XLRR là 264.000 tỷ đồng (xấp xỉ 10% tổng dư nợ), và nguồn quĩ DPRR còn 63.000 tỷ đồng thì nợ xấu của hệ thống các NHTM vẫn ở mức 8,80%. Như vậy, số liệu nợ xấu phát sinh thực tế là khoảng 18,80% và vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Do vậy cần có những giải pháp thiết thực và hiệu quả từ sự phối hợp đồng bộ giữa Chính phủ, NHNN và các bộ ngành có liên quan, NHTM và cả khách hàng thì mới giải quyết được vấn đề nợ xấu một cách hiệu quả.


KẾT LUẬN CHƯƠNG II‌


Trong chương II, người viết đã nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM Việt Nam chủ yếu từ giai đoạn 2005 – 2011 và đi sâu vào phân tích thực trạng nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam, từ đó tổng hợp được một số nguyên nhân phát sinh nợ xấu cũng như thực trạng xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM hiện nay.


Xử lý nợ xấu thông qua thị trường mua bán nợ; Xử lý nợ xấu thông qua xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ; Xử lý nợ xấu bằng nguồn DPRR; Xử lý nợ xấu thông qua cơ cấu lại các khoản nợ hoặc giãn nợ; Xử lý nợ xấu bằng chuyển nợ xấu thành vốn góp, vốn cổ phần


Xác định nguyên nhân làm phát sinh nợ xấu và phân tích thực trạng xử lý nợ xấu chính là tiền đề để người viết đưa ra các giải pháp trong Chương III.


Hiện nay chính phủ đang chỉ đạo mạnh mẽ các đề án tái cấu trúc tổ chức và hoạt động của hệ thống NHTM và tái cấu trúc DNNN cho mục tiêu cuối cùng là cải cách nền kinh tế. Trong đó, xử lý nợ xấu thành công là một trong các mắt xích cực kỳ quan trọng trong mục tiêu củng cố thanh khoản – Xử lý nợ xấu – Tái cấu trúc tổ chức và hoạt động được xem là 01 trong 03 giai đoạn chính của tiến trình tái cơ cấu hệ thống NHTM.


Thực tiễn cho thấy trung bình phải mất từ 3 – 5 năm để xử lý một khoản nợ do những vướng mắc trong cơ chế xử lý nợ. Chính vì vậy định hướng giải pháp chương III sẽ bao gồm các giải pháp mang tính định hướng và các giải pháp nâng cao chất lượng xử lý nợ xấu. Bên cạnh đó, các NHTM không thể tự mình xử lý khối lượng nợ xấu khổng lồ gần 100.000 tỷ đồng nếu không có các cơ chế chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, từ NHNN. Chính vì vậy người viết cũng mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị từ thực trạng xử lý nợ xấu hiện nay.


Chương 3‌

GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU CHO HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM


3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH NGÂN HÀNG ĐẾN 2020‌


Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 24/5/2006 đã đề ra mục tiêu: Cải cách căn bản, triệt để và phát triển toàn diện các TCTD theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt trình độ phát triển trung bình tiên tiến trong khu vực ASEAN với cấu trúc đa dạng về sở hữu, về loại hình TCTD, có quy mô hoạt động lớn hơn, tài chính lành mạnh, đồng thời tạo nền tảng đến sau năm 2020 xây dựng được hệ thống các TCTD hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực châu Á, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng, có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới; bảo đảm các TCTD, kể cả các TCTD nhà nước hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường và vì mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận; phát triển hệ thống TCTD hoạt động an toàn và hiệu quả vững chắc dựa trên cơ sở công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động NHTM. Chính phủ sẽ tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống ngân hàng; tạo điều kiện cho các TCTD trong nước nâng cao năng lực quản lý, trình độ nghiệp vụ và khả năng cạnh tranh; bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết của Việt Nam với quốc tế; gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước; tiếp tục củng cố, lành mạnh hoá và phát triển các ngân hàng cổ phần.


Phương châm hành động của các TCTD là “An toàn - Hiệu quả - Phát triển bền vững - Hội nhập quốc tế”. Theo Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 – 2015 của Thủ tướng Chính phủ:


- Phấn đấu đạt tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà nước dưới 3% theo tiêu chuẩn phân loại nợ và chuẩn mực kế toán của Việt Nam. Bên cạnh đó, đa dạng hóa các phương thức huy động vốn; kiểm soát tăng trưởng tín dụng phù hợp với nguồn vốn về quy mô và cơ cấu kỳ hạn; từng bước giảm tỷ lệ dư nợ tín dụng so với vốn huy động về mức không quá 90% đến năm 2015.


- Phấn đấu đến năm 2015, hình thành được 1-2 NHTM nhà nước đạt trình độ khu vực về quản trị, công nghệ và khả năng cạnh tranh. Riêng với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam sẽ thực hiện cổ phần hóa vào thời điểm thích hợp và đảm bảo Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối tại các NHTM nhà nước sau cổ phần hóa.


- Trên cơ sở đánh giá thực trạng tài chính, hoạt động và quản trị, đặc biệt là chất lượng tài sản, công nợ, vốn tự có và mức độ an toàn của TCTD, các TCTD sẽ được phân loại thành 3 nhóm (TCTD lành mạnh; TCTD thiếu thanh khoản tạm thời và TCTD yếu kém) để có biện pháp xử lý thích hợp. Nội dung cơ cấu lại các TCTD yếu kém bao gồm: 1- Lành mạnh hóa về tài chính; 2- Cơ cấu lại hoạt động; 3- Cơ cấu lại hệ thống quản trị; 4- Cơ cấu lại pháp nhân và sở hữu.


Đề án cũng đưa ra giải pháp cơ cấu lại 3 nhóm TCTD nêu trên. Trong đó, đối với các TCTD yếu kém, NHNN Việt Nam tái cấp vốn cho TCTD thiếu thanh khoản trên cơ sở hồ sơ tín dụng có chất lượng tốt với mức tối đa tương đương vốn điều lệ của TCTD được tái cấp vốn.


TCTD yếu kém phải chịu sự giám sát đặc biệt một cách chặt chẽ, toàn diện của NHNN Việt Nam về quản trị, điều hành, tài chính và hoạt động.


Sau khi áp dụng các biện pháp bảo đảm khả năng chi trả, TCTD yếu kém được sáp nhập, hợp nhất, mua lại trên cơ sở tự nguyện. Nếu không thể thực hiện một cách tự nguyện, NHNN Việt Nam sẽ áp dụng các biện pháp sáp nhập, hợp nhất, mua lại trên cơ sở bắt buộc đối với TCTD yếu kém...


3.2. GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU CHO CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM‌

3.2.1. Các giải pháp mang tính phòng ngừa‌‌


3.2.1.1. Hoàn thiện bộ phận quản lý rủi ro theo chuẩn quốc tế.


Theo Basel 2, cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo rằng ngân hàng phải có hệ thống QTRR có hiệu quả, bao gồm các chiến lược, chính sách, quy trình nhằm nhận dạng, đo lường và kiểm tra, kiểm soát các loại rủi ro trên. Trong bối cảnh hiện nay khi nền kinh tế có những biến động khôn lường thì quản lý rủi ro càng phải được quan tâm hàng đầu. Trước hết việc phân loại rủi ro cũng cần có sự thay đổi theo hướng chi tiết và sát với thực tế hơn. Có 4 loại rủi ro chính là rủi ro thanh khoản, rủi ro tác nghiệp, rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng.


i) Rủi ro thanh khoản: Ngân hàng ở Việt Nam chỉ có rủi ro trong việc thanh toán các khoản nợ đến hạn, các yêu cầu rút tiền tiết kiệm của người gửi. Ở các quốc gia phát triển thì rủi ro thanh khoản còn được tính đến là rủi ro từ việc thiếu vốn cho vay ra, các NHTM phải huy động vốn bằng mọi giá.


ii) Rủi ro về tác nghiệp: Đây là dạng rủi ro xoay quanh 4 nguyên nhân chính là con người như, hệ thống thông tin, quy trình và do yếu tố khách quan. Những rủi ro này trong tình hình hiện nay càng trở nên phổ biến.


iii) Rủi ro thị trường: Đây là rủi ro được các NHTM quan tâm hơn thời gian gần đây. Điều này xuất phát từ việc các NHTM phải đối mặt với những rủi ro từ lãi suất, tỷ giá, chứng khoán và các sản phẩm hàng hóa phái sinh.


iv) Rủi ro tín dụng: Ngay như với quản trị rủi ro tín dụng được coi là có nhiều kinh nghiệm nhất thì các NHTM cũng chưa có nhận thức đầy đủ. Rủi ro tín dụng hiện mới được các NHTM hiểu là rủi ro khi khách hàng không trả được nợ. Thực tế thì còn một loại rủi ro tín dụng khác là rủi ro danh mục. Rủi ro danh mục tín dụng là


khi tín dụng NHTM tập trung quá nhiều vào một loại tín dụng không đa dạng hóa mà thường “bỏ trứng vào một giỏ”. Nhiều NHTM hiện gặp phải vấn đề này khi mà dư nợ cho vay BĐS quá cao và thị trường BĐS có những biểu hiện suy giảm, mất thanh khoản.


Quy trình quản trị rủi ro phải được thực hiện đối với riêng từng rủi ro và đối với toàn bộ danh mục rủi ro. Trong quản trị rủi ro tín dụng, các NHTM cần thực hiện quản trị rủi ro đối với từng khoản tín dụng và đối với toàn bộ danh mục tín dụng. Quản trị rủi ro đối với từng khoản tín dụng đòi hỏi kiến thức cụ thể về hoạt động kinh doanh và điều kiện tài chính của đối tác trong khi quản trị rủi ro danh mục tín dụng yêu cầu kiến thức bao quát toàn diện để giám sát toàn bộ thành phần và chất lượng danh mục tín dụng. Các NHTM cần phải có hệ thống giám sát chất lượng của toàn bộ danh mục tín dụng phù hợp với tính chất, quy mô và tính phức tạp của danh mục tín dụng. Việc giám sát chất lượng của toàn bộ danh mục tín dụng giúp cho NHTM có được cái nhìn tổng thể về rủi ro tín dụng, từ đó, dễ dàng nhận biết được rủi ro đầu tư tập trung vào những hạng mục (khách hàng, khu vực, ngành nghề,..), trên cơ sở đó, có những điều chỉnh thích hợp để tránh sự tập trung đầu tư quá mức nhằm làm giảm thiểu rủi ro.


3.2.1.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực‌


Ngân hàng là lĩnh vực đòi hỏi sự chuyên nghiệp và tính minh bạch. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ ngân hàng là điều hết sức quan trọng. Nguồn nhân lực yếu kém không chỉ tạo ra những hạn chế trong quản trị ngân hàng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh mà còn tiềm ẩn rủi ro đạo đức rất lớn, gây thất thoát tài sản của công dân và quốc gia.


Sự phát triển quá nóng của hệ thống ngân hàng đã tạo ra những hệ lụy không nhỏ. Nguồn nhân lực chất lượng cao, có đạo đức nghề nghiệp còn thiếu nhiều và chưa đáp ứng với nhu cầu thực tế. Công tác tuyển dụng, đào tạo lại chưa được coi trọng đúng mức, nên rủi ro tác nghiệp và đạo đức gia tăng. Mặt khác, đa số cán bộ quản lý


cấp trung và cấp cao ở từng NHTM chủ yếu được đề bạt một cách chủ quan, không tuân theo những nguyên tắc tối thiểu của khoa học quản trị nhân sự. Họ rất thiếu kiến thức về quản lý và điều hành cho một chi nhánh, một hệ thống theo hướng hiện đại. Và như thế, đạo đức phải được coi như một tiêu chí tiên quyết trong công tác tuyển chọn. Các ngân hàng phải xây dựng văn hóa doanh nghiệp, thiết lập một hệ thống kiểm soát đặc biệt về những hành vi trong công tác huy động vốn và cho vay. Việc thiếu những quy định rò ràng, chế tài nghiêm khắc sẽ tạo ra “rủi ro đạo đức” trên thị trường tiền tệ. Đối với từng cán bộ ngân hàng, việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức là ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân. Bản thân mỗi ngân hàng phải tạo môi trường làm việc chuyên nghiệp, lành mạnh nhằm nâng cao và giữ gìn phẩm chất đạo đức của cán bộ ngân hàng.


Hơn bao giờ hết, từng NHTM phải giáo dục đạo đức nghề nghiệp và coi đó như một nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình tái cơ cấu. Vấn đề cần quan tâm hiện nay là các nhà hoạch định chính sách phải tạo ra một môi trường kinh doanh nhất quán, đồng bộ và bình đẳng. Có như thế, hoạt động của hệ thống NHTM mới giảm thiểu những rủi ro về đạo đức trong kinh doanh tiền tệ, tạo nền tảng cơ bản cho sự phát triển lành mạnh và bền vững của hệ thống ngân hàng Việt Nam.


3.2.1.3. Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin quản lý‌


Trên cơ sở đánh giá, rà soát lại hệ thống thông tin quản lý hiện tại các ngân hàng chủ động cấu trúc lại hệ thống thông tin quản lý theo yêu cầu đổi mới quản trị kinh doanh thích ứng với quá trình hội nhật kinh tế; Cấu trúc hệ thống thông tin quản lý theo yêu cầu đổi mới đó cần thiết sao cho tập trung mạnh hơn vào các khâu đột phá; Việc xây dựng và phát triển hệ thống thông tin quản lý nhất là việc triển khai xây dựng các dự án hệ thống thông tin mới phải bảo đảm tương thích của hệ thống thông tin hiện tại; Tập trung xử lý các bất cập trong công nghệ thông tin đang hoặc sẽ ứng dụng để bảo đảm tuyệt đối an toàn trong quản lý kinh doanh của từng NHTM nhất là đối với các thông tin nhạy cảm và thông tin quản lý tài sản qua mạng

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 06/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí