bên cho vay không nắm rò được nguồn thông tin sẽ dẫn tới tiềm ẩn rủi ro đạo đức sau khi hợp đồng vay vốn được kí kết.
2.2.3.3. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
Nguyên nhân sâu xa lý giải cho việc lạm phát bùng nổ là sự duy trì chính sách nới lỏng tiền tệ (tăng trưởng tín dụng quá nóng) trong thời gian dài nhằm thúc đẩy tăng trưởng, nền kinh tế phải hấp thụ một lượng vốn lớn nhưng việc đầu tư và kiểm soát giá cả lại tỏ ra chưa hiệu quả, cụ thể: Công suất dư thừa do đầu tư mở rộng quy mô và tình hình kinh tế toàn cầu suy sụp khiến thị trường đầu ra bị ảnh hưởng; Gánh nặng lãi suất của các doanh nghiệp quá lớn, cao hơn tỷ lệ ROE (Thu nhập trên vốn chủ sở hữu) của các tập đoàn và tổng công ty nhà nước (khoảng 16,5%). Kết hợp hai yếu tố này lại dẫn tới một thực tế là doanh nghiệp không có khả năng trả các khoản nợ đến hạn, tạo ra nhu cầu đảo nợ (refinancing) và vốn hóa lãi vay.
Kể từ cuối năm 2008, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sau đó là vấn đề lạm phát cao và hiện nay là suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước, do đó môi trường kinh doanh và hoạt động ngân hàng gặp nhiều khó khăn làm cho chất lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng. Trong giai đoạn 2008-2011, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng bình quân 26,56% nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu bình quân 51%. Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng từ năm 2011 chậm lại đáng kể, đặc biệt là 5 tháng đầu năm 2012 dư nợ tín dụng không tăng nhưng nợ xấu tăng tới 45,5% do tình hình kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp suy giảm mạnh.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng cầu chậm lại từ năm 2011: Năm 2011, tăng trưởng kinh tế 5,89%. Trong 6 tháng đầu năm 2012, tăng trưởng kinh tế ước chỉ đạt 4,38% so với cùng kỳ năm 2011 (cùng kỳ năm 2011 tăng 5,57%).
- Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng chậm, thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước: Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2011 tăng 6,8% so với năm 2010. Tính chung 06 tháng đầu năm 2012, chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ tăng 4,5% so với cùng kỳ năm
Có thể bạn quan tâm!
- Tăng Trưởng Tín Dụng Và Huy Động Vốn
- Tỷ Lệ (%) Cho Vay/huy Động (Ldr) Giai Đoạn 2008-2011
- Phân Tích Nợ Xấu Theo Các Nhóm Tctd (Đơn Vị: Tỷ Vnd)
- Kết Quả Xử Lý Nợ Xấu Đến Ngày 30/09/2012 (Đvt: Tỷ Vnd)
- Hoàn Thiện Thể Chế Kiểm Soát Nội Bộ Và Kiểm Toán Nội Bộ
- Hoàn Thiện Hành Lang Pháp Lý Về Xử Lý Nợ Của Nhtm
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
trước, chỉ bằng 45% mức tăng 6 tháng đầu năm 2011 (9,7%). Giá trị sản xuất xây dựng trong 6 tháng đầu năm 2012 theo giá so sánh năm 1994 chỉ bằng 99,6% so với cùng kỳ năm 2011. Ngành xây dựng gặp nhiều khó khăn do hoạt động đầu tư tăng chậm, thị trường bất động sản trầm lắng kéo dài. Nhiều công trình, dự án xây dựng giãn tiến độ hoặc dừng khởi công làm cho nhu cầu nguyên vật liệu xây dựng không tăng cao, nhiều sản phẩm tiêu thụ khó khăn (như xi măng, sắt thép,…).
- Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp: Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2011 tăng 6,2% so với năm 2010. Trong 5 tháng đầu năm 2012, chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước.
- Tiêu dùng cá nhân tăng chậm: Tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ năm 2011 tăng 24,2% so với năm 2010 và chỉ tăng 4,7% nếu loại trừ đi yếu tố giá. Tính chung 06 tháng đầu năm 2012, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì chỉ tăng 6,5%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ các năm trước.
- Chỉ số tồn kho tăng mạnh và ở mức cao so với cùng kỳ các năm trước. Cuối năm 2011, chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 23% so với cùng kỳ năm 2010. Tại thời điểm 01/6/2012, chỉ số hàng tồn kho của ngành công nghiệp chế biến tăng 26% so với cùng kỳ năm trước. Điều này phản ánh khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng như sức cầu tiêu dùng của nền kinh tế đang ở mức rất yếu dẫn đến đọng vốn trong sản xuất kinh doanh và làm tăng nợ xấu của các TCTD.
- Khách hàng vay của TCTD có tình hình tài chính suy giảm, kém lành mạnh hoặc kinh doanh thua lỗ. Sản xuất kinh doanh phải đối mặt với vấn đề chi phí cao, lãi suất ngân hàng cao, thiếu vốn, đồng thời tiêu thụ hàng hoá khó khăn đã ảnh hưởng lớn đến điều kiện tài chính, kết quả kinh doanh và khả năng trả nợ vay ngân hàng của doanh nghiệp. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động tăng nhanh: Năm 2011 có 79.014 doanh nghiệp và tính từ đầu năm đến ngày 21/6/2012 có khoảng 25.250 doanh nghiệp,
tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2011 (23.358 doanh nghiệp bị phá sản trong 6 tháng đầu năm 2011).
- Nhiều doanh nghiệp hiện nay có năng lực tài chính yếu, chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng, vốn chủ sở hữu nhỏ và khả năng ứng phó với sự thay đổi môi trường kinh doanh hạn chế. Vì vậy, khi môi trường kinh doanh xấu đi, chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt, lãi suất tăng thì các doanh nghiệp dễ gặp khó khăn về khả năng trả nợ. Theo kết quả giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, đến cuối tháng 3/2012 trong hơn 1 triệu khách hàng được chọn mẫu khảo sát tại 57 TCTD của Việt Nam có 10.782 khách hàng có hệ số nợ/vốn chủ sở hữu từ 3 lần trở lên.
2.2.3.4. Nguyên nhân từ các cơ quan thanh tra, giám sát
Năng lực thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước trong một thời gian dài còn hạn chế, chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm và rủi ro trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, nhất là các vi phạm quy định về hạn chế cấp tín dụng và việc đầu tư quá mức vào một số lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.
2.3. THỰC TRẠNG XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA HỆ THỐNG NHTM
2.3.1. Xử lý nợ xấu thông qua thị trường mua bán nợ
Bán nợ cho các tổ chức có chức năng mua - bán nợ chuyên nghiệp là phương án xử lý nợ xấu nhanh nhất giúp các ngân hàng thu hồi một phần vốn để phục vụ cho các nhu cầu và cơ hội mới nhằm cải thiện tình hình tài chính.
Ở nhiều nước trên thế giới, những công ty mua bán nợ có thể mua lại phần lớn nợ của các NHTM, nhưng điều này đòi hỏi vốn rất lớn, từ nguồn tài trợ hoặc vay từ các nguồn vốn bên ngoài. Ở Việt Nam, do ngân sách hạn hẹp trong khi quy mô nợ xấu
của các NHTM rất lớn, nên khả năng tài chính để mua lại nợ xấu của các NHTM ở rất hạn chế.
Hiện nay, mới chỉ có Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) của Bộ Tài chính với số vốn điều lệ hiện nay khoảng 2.500 tỷ đồng đang thực hiện nghiệp vụ mua các khoản nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp dưới các hình thức đấu thầu, thỏa thuận hoặc theo chỉ định. Sau khi mua, DATC xử lý các khoản nợ đã mua thông qua nhiều biện pháp khác nhau tùy thực tế cụ thể tại doanh nghiệp khách nợ và đánh giá của DATC, như bán TSBD nợ, khai thác cho thuê tài sản, sử dụng TSBD để góp vốn với doanh nghiệp khác; thu nợ có chiết khấu hoặc bán nợ cho tổ chức kinh doanh nợ khác, xử lý tài chính để cơ cấu lại nợ và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp...
Một số NHTM cũng đã thành lập công ty quản lý và khai thác tài sản (AMC), nhưng hầu hết chỉ hoạt động giới hạn trong việc mua, bán các khoản nợ mà TCTD cho khách hàng vay, chứ chưa được phép mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực mua, bán nợ của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Một lý do khác, các dịch vụ kèm theo việc mua bán nợ như tư vấn, hỗ trợ tài chính, làm sạch tài sản để bán… cũng chưa phát triển. Vì thế, nhiều khoản nợ được ngâm giữ rất lâu mới bán được, khiến hiệu quả hoạt động của các công ty mua bán nợ hiện nay rất thấp. Điều này đã khiến các công ty mua bán nợ khó tăng trưởng vốn để kinh doanh.
2.3.2. Xử lý nợ xấu thông qua xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ
Chính phủ đã có Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về đăng ký giao địch bảo đảm, theo đó các phương thức xử lý TSBD theo thoả thuận bao gồm: Bán TSBĐ; Bên nhận bảo đảm nhận chính TSBD để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm; Bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ; Phương thức khác do các bên thoả thuận.
Mặc dù vậy, việc xử lý TSBD cũng không hề đơn giản và cần nhiều thời gian do các nguyên nhân sau đây:
- Tính thanh khoản của thị trường BĐS thấp, do vậy các NHTM dù phát mãi tài sản với giá bán khá hợp lý, rẻ hơn giá thị trường rất nhiều thì việc bán được hàng trong thời điểm hiện nay vẫn rất khó khăn.
- Một số dự án BĐS của Việt Nam còn đang ở trên giấy, chứ không phải đã xây dựng hẳn hoi, các BĐS của Việt Nam được bản thân doanh nghiệp và các nhà đầu cơ đẩy giá lên, vượt quá nhiều so với giá trị thật của chính BĐS đó. Cho nên có xử lý TSBD cũng không bù đắp được nhiều.
- Hệ thống pháp luật Việt Nam chưa tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trong việc xử lý tài sản thế chấp của khách hàng vay, đặc biệt là tốn rất nhiều thời gian cho các thủ tục pháp lý. Ví dụ trong các điều khoản của Hợp đồng đảm bảo, ngân hàng luôn ràng buộc điều kiện “Khi khách hàng vi phạm các điều khoản của Hợp đồng tín dụng thì ngân hàng được toàn quyền xử lý TSBD để thu hồi nợ”. Trên thực tế, nếu không đạt được sự thoả thuận với khách hàng hoặc khách hàng không hợp tác, cố tình chây kỳ để kéo dài thời gian trả nợ thì ngân hàng chỉ còn cách chuyển hồ sơ khởi kiện. Tuy nhiên luật pháp và các công cụ thực thi pháp luật chưa thực sự nghiêm minh, chưa hỗ trợ đầy đủ cho ngân hàng chủ động xử lý TSBD mà không có sự can thiệp của Toà án. Do đó, dù có phán quyết của Toà, ngân hàng vẫn còn gặp trở ngại vì khâu thi hành án còn chậm. Tiếp đến là sự phối hợp không đồng bộ giữa cơ quan thẩm định, cơ quan bán đấu giá... Từ lúc khởi kiện đến cưỡng chế, thi hành một vụ trung bình mất 2-3 năm. Mặt khác, vấn đề pháp lý liên quan đến phát mãi tài sản cũng rất phức tạp. Hiện nay, việc phát mãi tài sản còn phức tạp hơn, vì tài sản phát mãi thường có liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau khiến việc xử lý, đưa một tài sản đi phát mãi tốn rất nhiều thời gian.
2.3.3. Xử lý nợ xấu bằng nguồn dự phòng rủi ro
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, nợ cho vay của ngân hàng được phân ra làm năm nhóm với mức trích lập cụ thể từ 0-100% tùy mức độ rủi ro.
Ngoài các mức trích cụ thể này, điều 9 - Quyết định 493 còn quy định rò: “Các tổ chức tín dụng phải trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị của các khoản nợ. Trong thời hạn tối đa năm năm kể từ khi quyết định này có hiệu lực, tổ chức tín dụng phải trích lập đầy đủ số tiền dự phòng chung”. Như vậy nguồn trích lập dự phòng rủi ro của hệ thống NHTM hiện nay ước tính trên 75.000 tỷ đồng và được coi đóng vai trò chủ chốt so với các nguồn khác trong việc xử lý nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng.
2.3.4. Xử lý nợ xấu thông qua cơ cấu lại các khoản nợ hoặc giãn nợ
Ngày 24/4/2012, Thống đốc NHNN Việt Nam có văn bản số 2506/NHNN-CSTT gửi các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện các giải pháp về hoạt động tín dụng. Theo đó, để tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp về hoạt động tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và hộ dân từng bước phục hồi, duy trì hoạt động sản xuất - kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện một số nội dung.
Thứ nhất, các tổ chức tín dụng chủ động phối hợp với khách hàng vay trong việc rà soát, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay để tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay trong việc trả nợ vốn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án, phương án vay vốn, khả năng trả nợ của khách hàng. Trên cơ sở kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay và khả năng tài chính của mình, tổ chức tín dụng thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng vay không có khả năng trả nợ đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng theo quy định tại Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/5/2005.
Cụ thể, khách hàng không có khả năng trả nợ đúng kỳ hạn nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay trong phạm vi thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng trả nợ trong các kỳ hạn tiếp theo thì tổ chức tín dụng xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay; khách hàng không có có khả năng trả hết nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay đúng thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và được đánh giá là có khả năng trả nợ trong một khoảng thời gian nhất định sau thời hạn cho vay thì tổ chức tín dụng xem xét cho gia hạn nợ với thời hạn phù hợp với nguồn trả nợ của khách hàng. Các tổ chức tín dụng thực hiện việc phân loại nợ đối với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo quy định tại Quyết định số 780/QĐ-NHNN ngày 23/4/2012 về việc phân loại nợ đối với nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ.
Thứ hai, Thống đốc cũng yêu cầu, trên cơ sở khả năng tài chính và chính sách khách hàng của mình, tổ chức tín dụng xem xét điều chỉnh giảm lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng xuống theo mức lãi suất cho vay hiện hành, nhất là đối với các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sử dụng nhiều lao động. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng xem xét miễn, giảm lãi phải trả đối với khách hàng bị tổn thất về tài sản dẫn đến khó khăn về tài chính theo quy định tại quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 và trên cơ sở khả năng tài chính, quy chế miễn, giảm lãi của tổ chức tín dụng.
NHNN cũng đã ban hành Quyết định số 780/QĐ-NHNN về việc phân loại nợ đối với nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ, tạo điều kiện cho các NHTM cơ cấu lại nợ, hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khăn nhưng có chiều hướng sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ tốt.
Theo đó, để phản ánh khách quan khả năng trả nợ của khách hàng trong điều kiện hiện nay, các khoản nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ do tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng có chiều hướng tích cực và có khả năng trả nợ tốt sau khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ sẽ được giữ nguyên nhóm nợ như đã được phân loại theo quy định trước khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ.
Việc mở cơ chế cho cơ cấu lại nợ như điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ sẽ giúp các doanh nghiệp giảm tải áp lực trả nợ, cũng như có thêm điều kiện để nối lại hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh tốt hơn. Với các ngân hàng, khi điều kiện trả nợ của doanh nghiệp được cải thiện sẽ bớt áp lực gia tăng nợ xấu; việc được giữ nguyên nhóm nợ sau cơ cấu cũng giảm bớt áp lực phải gia tăng việc trích lập dự phòng.
2.3.5. Xử lý nợ xấu bằng chuyển nợ xấu thành vốn góp, vốn cổ phần
Đây được xem là giải pháp cuối cùng của các NHTM, bởi lẽ nguồn lực của các NHTM có hạn nên không thể áp dụng rộng rãi giải pháp chuyển nợ thành cổ phần. Hơn nữa, do các ngân hàng cũng không có nhiều chuyên môn chuyên sâu về các ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, nên việc NHTM tham gia vào doanh nghiệp khó có thể giúp doanh nghiệp cải thiện tình hình. Trong khi đó, triển vọng của thị trường ra sao, liệu khi không còn chịu áp lực của khoản vay ngân hàng, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có khả năng hồi phục. Chính vì vậy, để khoản đầu tư của ngân hàng vào doanh nghiệp có khả năng sinh lời hoặc thu hồi vốn vẫn là câu hỏi ngỏ.
Bên cạnh đó, việc chuyển đổi từ nợ sang cổ phần của ngân hàng cũng gặp một số khó khăn khi xác định vai trò tham gia của ngân hàng. Nếu việc chuyển nợ sang cổ phần thành công, ngân hàng có người tham gia ban điều hành lại đồng nghĩa với việc ngân hàng vừa cho vay, vừa tham gia quản lý, rất dễ xảy ra những mâu thuẫn lợi ích…
2.3.6. Đánh giá một số kết quả xử lý nợ xấu