1.2. Khái niệm tăng trưởng tín dụng bán lẻ và sự cần thiết để tăng trưởng tín dụng bán lẻ trong tình hình hiện nay.
1.2.1. Khái niệm tăng trưởng tín dụng bán lẻ:
Trong ngôn ngữ thông thường, khái niệm “tăng trưởng” thường được xem tương đồng với “phát triển”, bởi tăng trưởng đóng vai trò thiết yếu định hình mức độ phát triển.
Tăng trưởng được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy mô sản lượng trong một giai đoạn nhất định. Tăng trưởng được xem xét trên hai mặt biểu hiện: đó là tăng tuyệt đối hay mức tăng phần trăm (%) hàng năm, hoặc bình quân trong một giai đoạn.
Tăng trưởng tín dụng là sự tăng lên về số lượng và chất lượng của các khoản cho vay cho khối tư nhân, cá nhân, tập thể hoặc tổ chức công cộng
Tăng trưởng tín dụng là việc các NHTM sử dụng các chính sách nhằm tăng nguồn vốn huy động, đáp ứng cho việc cấp tín dụng, chiết khấu, đầu tư vào những đối tượng là các tổ chức kinh tế, cá nhân… có nhu cầu vay vốn, từng bước nâng cao lợi nhuận, thị phần và thương hiệu trên thị trường.
Như vậy có thể rút ra khái niệm tăng trưởng tín dụng bán lẻ:
- Hiểu theo nghĩa hẹp: Tăng trưởng tín dụng bán lẻ là sự gia tăng tỷ trọng dư nợ tín dụng bán lẻ tại ngân hàng (tăng về lượng).
- Hiểu theo nghĩa rộng: Tăng trưởng tín dụng bán lẻ là sự gia tăng dư nợ tín dụng bán lẻ tại một ngân hàng kết hợp với sự đa dạng sản phẩm tín dụng bán lẻ, đồng thời tăng chất lượng tín dụng bán lẻ (tăng về lượng và chất), đảm bảo rủi ro ở mức thấp nhất nhưng lợi nhuận đạt mức cao nhất cho ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp tín dụng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh - 1
- Giải pháp tín dụng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh - 2
- Sơ Đồ Tín Dụng Tiêu Dùng Gián Tiếp.
- Bài Học Kinh Nghiệm Về Tín Dụng Bán Lẻ Của Một Số Ngân Hàng Thương Mại Trên Thế Giới Và Tại Việt Nam Từ Đó Rút Ra Bài Học Kinh Nghiệm
- Tổng Quan Về Hoạt Động Của Ngân Hàng Tmcp Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam – Chi Nhánh Thành Phố Hồ Chí Minh
- Cơ Cấu Nguồn Vốn Huy Động Theo Thành Phần Kinh Tế
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
Chất lượng tín dụng bán lẻ được phản ánh ở các yếu tố như dư nợ, nợ xấu, khả năng thu hút khách hàng, thủ tục đơn giản....
1.2.2. Sự cần thiết để tăng trưởng tín dụng bán lẻ trong tình hình hiện nay
Tín dụng bán lẻ là một trong những dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây nhưng đã tỏ rò được ưu thế của nó so với các khoản cho vay khác của Ngân hàng.
Tăng trưởng hoạt động tín dụng bán lẻ đã trở thành xu hướng tất yếu để các ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường tài chính khi mà nó đóng vai trò ngày càng quan trọng trong hoạt động của các NHTM Việt Nam trước tình hình hội nhập kinh tế tài chính thế giới.
- Có thể nói thị trường TDBL ngày càng phong phú và đa dạng, ngoài những nhu cầu thiết yếu như ăn mặc, ở, đi lại,… còn có những nhu cầu cao hơn như vui chơi, giải trí, du lịch, du học,…, mức sống người dân được nâng cao, yêu cầu trong cuộc sống cao hơn. Mặt khác, Việt Nam có nền kinh tế với tốc độ phát triển khá cao thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, tiềm năng về lĩnh vực tín dụng bán lẻ là rất rộng lớn, đang mở ra cho hoạt động của các ngân hàng thương mại.
- Với trình độ công nghệ tiến bộ ngày nay, dịch vụ thanh toán qua thẻ đã trở thành công cụ phổ biến, người dân đã có thói quen chi trả tiền qua tài khoản, nhất là qua các năm gần đây thị trường thẻ ATM ở Việt Nam tăng đột biến mạnh. Bên cạnh đó, Chính phủ đã xây dựng đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006- 2010 và định hướng đến năm 2020 tại Việt Nam giúp nâng cao cơ sở hạ tầng thanh toán và thay đổi thói quen dùng tiền mặt của người dân. Đây là một thị trường đầy tiềm năng để phát triển mạng lưới dịch vụ tín dụng qua thẻ của ngân hàng (như cho vay thấu chi, thẻ tín dụng).
- Trong nền kinh tế mở, nhu cầu về dịch vụ ngân hàng ngày càng cao, nhất là ngân hàng bán lẻ, dịch vụ thường đơn giản, dễ thực hiện, trong đó chú trọng phát triển các dịch vụ TDBL như: cho vay thế chấp nhà, cho vay tín chấp, cho vay thấu chi qua thẻ tín dụng, cầm cố sổ tiết kiệm,... Cần có một chính sách khách hàng nhất quán để có thể quản lý tập trung và phân đoạn khách hàng theo từng mạng lưới chi nhánh, nhằm khai thác hết nguồn lực rất lớn trong dân cư.
- Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã mở ra cánh cửa hội nhập lớn cho nền kinh tế - chính trị của đất nước, đời sống nhân dân được nâng cao, nhu cầu cuộc sống ngày càng chất lượng, hiện đại. Đặc biệt là dịch vụ ngân hàng đã trở thành công cụ hữu dụng cho cuộc sống người dân trong thanh toán, cất giữ tiền tiết kiệm (hạn chế không sử dụng tiền mặt, tiết kiệm chi phí), ngân hàng
còn hỗ trợ vốn cho người dân trong kinh doanh, chi tiêu, học hành,...
- Do vậy, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã và đang tăng trưởng dịch vụ ngân hàng bán lẻ, đặc biệt các sản phẩm TDBL, đây là xu thế tất yếu, phù hợp với xu hướng chung của các ngân hàng trong khu vực và thế giới, phục vụ đối tượng khách hàng cá nhân, hộ gia đình, đảm bảo cho các ngân hàng quản lý rủi ro hữu hiệu, cung ứng dịch vụ chất lượng cao cho khách hàng, định hướng kinh doanh, thị trường sản phẩm mục tiêu, giúp ngân hàng đạt hiệu quả kinh doanh tối ưu.
Có thể nói tại Việt Nam, kinh tế tăng trưởng liên tục, môi trường pháp lý hoàn thiện dần, nhu cầu xã hội ngày càng tăng, thị trường TDBL còn rất nhiều tiềm năng phát triển và tăng trưởng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng tín dụng bán lẻ và các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng tín dụng bán lẻ:
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng tín dụng bán lẻ
Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng bán lẻ thành hai nhóm, đó là các nhân tố bên trong ngân hàng và các nhân tố bên ngoài ngân hàng.
Các nhân tố bên trong ngân hàng
- Quy mô, uy tín và năng lực tài chính của ngân hàng có ảnh hưởng tới lượng cho vay tiêu dùng. Ngân hàng có lượng vốn tự có cao hay thấp, có nhiều mạng lưới chi nhánh để thuận tiện giao dịch với khách hàng hay không. Uy tín của ngân hàng cao hay thấp cũng sẽ ảnh hưởng tới lượng khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. Khi ngân hàng có sức mạnh tài chính lớn thì sẽ có khả năng cung cấp nhiều sản phẩm đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng.
- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: Để lĩnh vực TDBL là một trong những thế mạnh của ngân hàng thì các nhà quản trị ngân hàng cần coi chính sách tín dụng là chiến lược kinh doanh của mình và xây dựng một chính sách tín dụng riêng. Không những thế, chính sách tín dụng cần phải thông thoáng, linh hoạt và hiệu quả để có thể tạo ra những khoản vay an toàn và thu hút khách hàng. Đó là các quy định về lãi suất và phí tín dụng cao hay thấp, có linh hoạt và phù hợp với thu nhập hiện có của người dân hay không, các quy định về thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ, tài sản
đảm bảo, phương thức giải ngân và thanh toán. Thủ tục xin vay vốn có phức tạp hay đơn giản, thời gian thẩm định hồ sơ vay vốn kéo dài bao lâu, nếu thời gian thẩm định quá dài thì khách hàng sẽ không muốn chờ đợi và tìm tới các ngân hàng khác.
Nếu ngân hàng không chú trọng đến mảng dịch vụ này và không có một chiến lược nào cả thì hoạt động TDBL sẽ không có cơ hội phát triển. Một chính sách tín dụng phù hợp và đa dạng sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến vay, và nếu nó đáp ứng được mong muốn nhu cầu của người tiêu dùng thì tạo điều kiện cho ngân hàng phát triển các sản phẩm tín dụng của mình, tăng tính canh tranh trong hoạt động giữa các ngân hàng.
- Trình độ khoa học công nghệ và khả năng quản lý của ngân hàng: cũng là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển của hoạt động TDBL tại ngân hàng đó. Theo đó, với các phần mềm quản lý hiện đại, các dữ liệu về khách hàng sẽ được cập nhật và lưu giữ tập trung. Mặt khác, với tốc độ xử lý nhanh do tiến bộ công nghệ thông tin mang lại sẽ giúp rút ngắn đáng kể thời gian phục vụ khách hàng, giải quyết các thủ tục được nhanh chóng, chính xác, giảm bớt các thủ tục rườm rà cho khách hàng và việc quản lý hồ sơ khách hàng cũng được thuận tiện hơn.
- Chất lượng cán bộ tín dụng: Trình độ và thái độ cán bộ tín dụng của ngân hàng cũng mang tính quyết định thành công của TDBL. Cán bộ tín dụng cần có trình độ chuyên môn tốt thì mới thẩm định chính xác khách hàng và dự án vốn, từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn. Cán bộ tín dụng cũng cần có đạo đức nghề nghiệp, tận tâm với công việc, nhiệt tình giúp đỡ, chỉ bảo khách hàng các thủ tục cần thiết.... Đây là một nhân tố hết sức quan trọng để xây dựng thành công hoạt động TDBL. Ngân hàng cần có các quy định, nội quy làm việc thưởng phạt nghiêm minh, quản lý tốt và tạo điệu kiện cho cán bộ ngân hàng học tập để nâng cao trình độ nhằm phục vụ cho khách hàng nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
- Kênh phân phối: Muốn hoạt động TDBL được nhiều khách hàng biết tới thì ngân hàng cần có kênh phân phối phù hợp. Kênh phân phối là một tập hợp các yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến
khách hàng như tăng cường các hoạt động thông tin quảng cáo trên báo đài, tờ rơi, quảng bá hình ảnh của Ngân hàng nói chung cũng như lợi ích, chính sách về TDBL nói riêng. Nhờ có kênh phân phối mà sản phẩm dịch vụ của ngân hàng được thực hiện nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
- Yếu tố quản trị: Công tác quản trị, điều hành cũng phải đặc biệt chú trọng. Mỗi ngân hàng phải có một ban quản trị, điều hành có tầm nhìn chiến lược, có khả năng bao quát mọi hoạt động. Có như vậy thì hoạt động của ngân hàng mới đồng bộ và ổn định, đồng thời tạo ra hình ảnh riêng cho ngân hàng.
- Quản lý rủi ro: hoạt động tín dụng ngân hàng luôn tiềm ẩn những rủi ro nói chung. Đối với việc phát triển các sản phẩm TDBL, vai trò của quản lý rủi ro là không thể xem nhẹ để định hướng cho những sản phẩm và cả yếu tố con người tuân thủ theo những quy trình, quy định cụ thể.
Các nhân tố bên ngoài ngân hàng
- Nhu cầu của khách hàng: Nắm bắt nhu cầu của từng đối tượng khách hàng đóng vai trò quyết định đối với các ngân hàng trong việc đưa ra các sản phẩm tín dụng phù hợp với đối tượng khách hàng đó. Tuy nhiên, nếu chỉ kinh doanh dựa trên nhu cầu của khách hàng, khi khách hàng đã xuất hiện nhu cầu thì ngân hàng mới bắt đầu triển khai các sản phẩm thì thiếu tính chủ động, thiếu khả năng cạnh tranh. Ngân hàng phải là người góp phần tạo ra nhu cầu cho khách hàng. Nghĩa là các sản phẩm tín dụng phải đi trước và có vai trò kích thích cho nhu cầu của khách hàng xuất hiện.
- Năng lực vay vốn của khách hàng: được thể hiện thông qua các nhân tố như thu nhập của khách hàng, trình độ văn hoá, thói quen, đạo đức… của khách hàng. Thu nhập của khách hàng vay tiêu dùng quyết định đến nhu cầu vay tiêu dùng của họ và quyết định việc có cho vay hay không của ngân hàng. Bởi vì, ngân hàng khi cho vay tiêu dùng sẽ căn cứ vào mức thu nhập trong tương lai của khách hàng, đó là nguồn thanh toán khoản nợ đó. Khách hàng vay cần có thu nhập ổn định để đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng và đặc biệt là cần có thiện chí trả nợ đúng hạn và đầy đủ
- Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng: Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng nói chung và sản phẩm tín dụng nói riêng của các ngân hàng đều tương đối giống nhau, bên cạnh đó tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng quyết liệt. Để tồn tại và phát triển thì tự thân mỗi ngân hàng luôn phải làm mới bản thân thông qua hình ảnh ngân hàng và các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp không ngừng cải tiến, hoàn thiện và phát triển hơn.
- Môi trường kinh tế chính trị: Nền kinh tế phát triển ổn định, đặc biệt là ổn định tiền tệ với các chỉ tiêu giá cả, lãi suất, tỷ giá, lạm phát sẽ làm tăng thu nhập bình quân đầu người giúp người tiêu dùng yên tâm về sự ổn định trong thu nhập cũng như sự ổn định của chi phí đi vay, chi phí mua sắm, sửa chữa nhà cửa, và các hàng hóa, dịch vụ khác, do đó làm tăng các khoản vay của họ, đồng thời tạo điều kiện duy trì và phát triển bền vững quan hệ hai chiều vay vốn và trả nợ. Và môi trường chính trị ổn định thì hoạt động TDBL cũng sẽ diễn ra thông suốt, phát triển vững chắc và hạn chế những rắc rối có thể xảy ra tạo điều kiện phát triển và tăng trưởng tín dụng bán lẻ.
- Đặc điểm thị trường nơi ngân hàng hoạt động: Nếu đó là thành thị hoặc nơi tập trung đông dân cư, có mức thu nhập khá, trình độ học vấn cao thì nhu cầu vay tiêu dùng sẽ tăng cao hơn so với vùng nông thôn, hẻo lánh nơi mà những người nông dân chỉ quanh năm ngày tháng biết tới ruộng vườn, thậm chí còn không biết tới hoạt động của ngân hàng.
- Các thói quen, phong tục tập quán, tâm lý có ảnh hưởng tới nhu cầu vay tiêu dùng. Người dân Việt Nam thường có thói quen tiết kiệm, khi tích lũy đủ tiền mới mua sắm, tiêu dùng, họ không nghĩ tới việc đi vay để mua sắm cộng với tâm lý ngại tiếp xúc với ngân hàng, sợ các thủ tục hành chính rườm ra. Chính vì thế nhu cầu vay của người dân còn thấp.
- Chính sách, chủ trương của nhà nước: Đây là những chính sách mang tầm vĩ mô và thường có thời gian thực hiện tương đối dài. Các chính sách này cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động tín dụng của ngân hàng nói chung và TDBL nói riêng. Chẳng hạn, khi Nhà nước tăng mức đầu tư cho nền kinh tế và tăng thu hút
đầu tư nước ngoài bằng các chính sách khuyến khích đầu tư (giản đơn về thủ tục giấy tờ, ưu đãi thuế…) sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế - xã hội; tăng trưởng kinh tế sẽ tăng; tỷ lệ thất ngiệp giảm; mức thu nhập của người lao động tăng, qua đó làm tăng nhu cầu tiêu dùng. Bên cạnh đó, các chính sách về thuế, các chương trình ưu đãi hỗ trợ phát triển, xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa, hải đảo… đều có tác động về trước mắt và lâu dài đến nhu cầu tiêu dùng của người dân. Do đó, nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động cho vay và phát triển các sản phẩm tín dụng của ngân hàng.
- Các quy định pháp lý của ngân hàng Nhà nước và Chính phủ có thể khuyến khích và cũng có thể hạn chế tín dụng nói chung và TDBL nói riêng. Đó là các quy định như quy định của Ngân hàng nhà nước khống chế các ngân hàng thương mại trong việc huy động theo tỷ lệ vốn tự có, quy định tỷ lệ cho vay tối đa đối với một khách hàng trên vốn tự có…
Một ngân hàng muốn tăng trưởng hoạt động TDBL thì cần tính tới tất cả các nhân tố nói trên.
1.3.2. Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng tín dụng bán lẻ:
Để đánh giá sự tăng trưởng TDBL có rất nhiều chỉ tiêu với nhiều hình thức cấp tín dụng như: cho vay, bảo lãnh... Tuy nhiên hình thức bảo lãnh cho cá nhân, hộ gia đình tại BIDV-HCM không phát sinh nên đề tài giới hạn việc đánh giá sự tăng trưởng TDBL chủ yếu là hoạt động cho vay dựa trên các chỉ tiêu sau:
- Dư nợ tín dụng bán lẻ: phản ánh quy mô hoạt động TDBL của NHTM. Nếu dư nợ kỳ sau cao hơn kỳ trước, chứng tỏ hoạt động TDBL của NHTM tăng trưởng về lượng. NHTM đã giải quyết nhu cầu vốn cho khách hàng với việc cung cấp nhiều sản phẩm đa dạng, phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế và ngược lại.
Dư nợ TDBL kỳ này – Dư nợ TDBL kỳ trước
Tốc độ tăng dư nợ TDBL (%) = x 100%
Dư nợ TDBL kỳ trước
- Dư nợ tín dụng bán lẻ có tài sản đảm bảo: nhằm đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế không phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi.
Dư nợ TDBL có tài sản đảm bảo
Dư nợ TDBL có tài sản đảm bảo(%) = x 100% Dư nợ TDBL
- Chất lượng tín dụng bán lẻ: có chỉ tiêu về nợ nhóm 2, nợ xấu. Tỷ lệ nợ nhóm 2 và nợ xấu của ngân hàng càng thấp càng tốt, và phải nằm trong giới hạn cho phép của ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu có mức dưới 3% có thể coi là ngưỡng khá tốt trong hoạt động ngân hàng; tuy nhiên tỷ lệ an toàn cho phép theo thông lệ quốc tế và Việt Nam là 5%.
Dư nợ TDBL nhóm 2
Tỷ lệ nợ TDBL nhóm 2 (%) = x 100% Dư nợ TDBL
Dư nợ TDBL xấu
Tỷ lệ nợ TDBL xấu (%) = x 100% Dư nợ TDBL
Trong đó, nợ nhóm 2 là khoản nợ cần chú ý bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến dưới 90 ngày hay các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Đây là các khoản nợ có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ. Do đó, Ngân hàng không chủ quan với nợ nhóm 2 mà phải sớm phân tích nguyên nhân và có biện pháp xử lý tín dụng ngay từ đầu, không để kéo dài thời gian quá hạn, dễ dẫn đến nguy cơ nợ xấu.
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4 và 5. Việc phân loại nợ thực hiện Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN Việt Nam.
- Tính đa dạng của sản phẩm tín dụng bán lẻ
Mức độ đa dạng hoá sản phẩm TDBL phù hợp với nhu cầu thị trường là một chỉ tiêu thể hiện sự tập trung tăng trưởng TDBL, qua đó phản ánh năng lực cạnh tranh của ngân hàng trong lĩnh vực này. Sự đa dạng hoá sản phẩm cần phải được thực hiện trong tương quan so với các nguồn lực hiện có của ngân hàng. Nếu không, việc triển khai quá nhiều sản phẩm có thể làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu quả do dàn trải nguồn lực quá mức.