mức bình quân chung, do các nhu cầu vay trung dài hạn mua nhà ở, đất ở, tiêu dùng tín chấp chiếm tỷ trọng lớn; bên cạnh đó, khách hàng vay thường không chủ động kế hoạch về dòng tiền, nhu tín dụng bán lẻ thông thường có thời hạn trên 12 tháng.
Tín dụng bán lẻ có độ rủi ro cao thể hiện ở ba góc độ:
- Thứ nhất: Luôn tồn tại nhóm khách hàng chây ì, lừa đảo.
- Thứ hai: Các rủi ro khách quan như suy thoái kinh tế, mất mùa, thất nghiệp, bệnh tật, tâm lý tiêu dùng của dân cư, mức độ ổn định xã hội...
- Thứ ba: Các rủi ro chủ quan như là tình trạng công việc, sức khoẻ của khách hàng, diễn biến tâm lý của khách hàng... ảnh hưởng đến tài chính và khả năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình. Hoặc là do sự ảnh hưởng của các tổ chức trung gian (đơn vị, tổ chức có cán bộ công nhân viên vay vốn, các đơn vị chủ quản...), đặc biệt là hình thức cho vay tiêu dùng không có tài sản bảo đảm cũng mang lại rủi ro rất nhiều đối với loại hình cho vay này. Mặt khác tư cách, phẩm chất của khách hàng vay thường khó xác định, chủ yếu dựa vào cách đánh giá và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng. Đây cũng là nhân tố tác động trực tiếp vào việc trả nợ cho ngân hàng, sẽ tạo nên rủi ro cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ.
Lợi nhuận thu được từ tín dụng bán lẻ là đáng kể. Tương ứng với mức rủi ro cao như vậy thì các khoản tín dụng bán lẻ có được một mức lợi nhuận rất lớn trong các nguồn thu của Ngân hàng. Bên cạnh đó, số lượng các khoản vay tín dụng bán lẻ khá nhiều khiến cho tổng quy mô tín dụng bán lẻ rất lớn, và cùng với mức lợi nhuận trên mỗi khoản vay sẽ khiến cho lợi nhuận thu về từ hoạt động cho vay là rất đáng kể trong tổng lợi nhuận của Ngân hàng.
Chính vì triển vọng về lợi nhuận cũng như phạm vi về đối tượng khách hàng trong lĩnh vực này mà đối với hầu hết các nước phát triển hiện nay tín dụng bán lẻ đã trở thành một trong những nguồn thu chủ chốt của các Ngân hàng thương mại, đóng vai trò chủ đạo trong dịch vụ Ngân hàng cũng như quản lý Ngân hàng và vẫn còn tiếp tục hứa hẹn nhiều triển vọng trong việc phát triển loại hình tín dụng này trong tương lai. Tại các nước đang phát triển, loại hình tín dụng này cũng đang dần
1.1.3. Các sản phẩm tín dụng bán lẻ
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp tín dụng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh - 1
- Giải pháp tín dụng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh - 2
- Khái Niệm Tăng Trưởng Tín Dụng Bán Lẻ Và Sự Cần Thiết Để Tăng Trưởng Tín Dụng Bán Lẻ Trong Tình Hình Hiện Nay.
- Bài Học Kinh Nghiệm Về Tín Dụng Bán Lẻ Của Một Số Ngân Hàng Thương Mại Trên Thế Giới Và Tại Việt Nam Từ Đó Rút Ra Bài Học Kinh Nghiệm
- Tổng Quan Về Hoạt Động Của Ngân Hàng Tmcp Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam – Chi Nhánh Thành Phố Hồ Chí Minh
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
Nếu thị trường tín dụng bán lẻ trước đây bị bỏ quên thì hiện nay lại trở thành thị trường đầy tiềm năng cho các ngân hàng nâng cao thị phần. Sự phát triển của công nghệ ngân hàng, sự gia nhập của các ngân hàng lớn từ nước ngoài cùng với nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đời sống người dân ngày càng nâng cao chính là những nhân tố thúc đẩy tín dụng bán lẻ tăng trưởng mạnh mẽ. Các ngân hàng thương mại hiện nay không ngừng nghiên cứu và đưa ra rất nhiều sản phẩm mới, để có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng nâng cao của khách hàng. Các sản phẩm được thiết kế trên cơ sở nghiên cứu kỹ nhu cầu khách hàng, căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay, một số sản phẩm phổ biến hiện nay gồm:
Sản phẩm cho vay nhu cầu nhà ở: là sản phẩm cho vay các nhu cầu về nhà ở với mục đích để ở hoặc đầu tư nhỏ, bao gồm: mua nhà ở, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở (đã hình thành, chưa hình thành) giữa khách hàng với bên bán là cá nhân, hộ gia đình hoặc tổ chức, chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở, xây dựng, cải tạo, sửa chữa nhà ở.
Sản phẩm cho vay mua ôtô: hỗ trợ khách hàng có nhu cầu vay vốn để mua ô tô phục vụ nhu cầu đời sống hoặc phục vụ mục đích kinh doanh.
Sản phẩm cho vay du học: cho vay vốn đối với khách hàng cá nhân, nhằm đáp ứng nhu cầu chứng minh năng lực tài chính, thanh toán chi phí học tập và sinh hoạt phát sinh trong quá trình học tập của du học sinh.
Sản phẩm cho vay tiêu dùng tín chấp: là sản phẩm vay vốn đối với khách hàng cá nhân có nhu cầu vay vốn phục vụ đời sống với nguồn trả nợ là thu nhập từ tiền lương (thưởng, phụ cấp) thường xuyên, ổn định hàng tháng/quý và các khoản thu nhập hợp pháp khác.
Sản phẩm cho vay đầu tư và kinh doanh chứng khoán: là sản phẩm cho nhà đầu tư vay bằng đồng Việt Nam để kinh doanh chứng khoán và ứng trước tiền bán chứng khoán đã được khớp lệnh công ty chứng khoán.
Sản phẩm chiết khấu giấy tờ có giá: mua giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của khách hàng đáp ứng nhu cầu của các khách hàng với hình thức chiết khấu có hoàn lại và chiết khấu không hoàn lại. Các giấy tờ có giá bao gồm: kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, và các giấy tờ có giá khác.
Sản phẩm cho vay bảo đảm bằng giấy tờ có giá, thẻ tiết kiệm: sản phẩm nhằm đáp ứng ngay tức thời nhu cầu ứng trước tiền gửi của khách hàng bằng cách cầm cố giấy tờ có giá, thẻ tiết kiệm.
Sản phẩm sản xuất kinh doanh: cho vay đối với cá nhân, hộ sản xuất kinh doanh có nhu cầu vay vốn để bổ sung vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nghiệp vụ bảo lãnh cá nhân: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng (Bên được bảo lãnh) dịch vụ bảo lãnh theo yêu cầu của bên thứ ba (Bên nhận bảo lãnh) trong các lĩnh vực giao dịch nhà đất, sản xuất kinh doanh, thương mại... như: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng.....
Phát hành thẻ tín dụng: là sản phẩm kết hợp giữa tín dụng và thanh toán. Nghĩa là khách hàng được quyền chi tiêu trước, trả tiền sau thông qua phương thức chi trả bằng thẻ với một hạng mức nhất định.
1.1.4. Phân loại tín dụng bán lẻ
Việc phân loại tín dụng bán lẻ được lựa chọn trên nhiều hình thức khác nhau để
có cái nhìn toàn diện ở những góc độ khác nhau.
Căn cứ vào mục đích cho vay: tín dụng bán lẻ gồm có 2 loại:
- Cho vay tiêu dùng cư trú: Là khoản tín dụng được cấp nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm xây dựng hoặc cải tạo nhà cửa của khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình. Đặc điểm của những món vay này là quy mô thường lớn, thời gian dài.
- Cho vay tiêu dùng chi phí cư trú: Là khoản tín dụng được cấp phục vụ cho việc trang trải các khoản chi phí mua sắm xe ôtô, đồ dùng gia đình, chi phí học hành… Đặc điểm của những khoản tín dụng này thường có quy mô nhỏ, thời gian tài trợ ngắn
Căn cứ vào phương thức hoàn trả:
- Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay trong đó người đi vay trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng nhiều lần theo kì hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này thường áp dụng cho các khoản vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay. Đây là hình thức cho vay chủ yếu của các ngân hàng thương mại, loại hình vay này giúp cho khách hàng vay không bị áp lực trả nợ vào cuối kỳ cao.
- Cho vay phi trả góp: tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường khoản cho vay tiêu dùng phi trả góp chỉ được cấp cho các khoản vay giá trị nhỏ, thời hạn vay ngắn (thường dưới 1 năm), đối tượng khách hàng thu nhập khá cao. Trong thực tế, khoản cho vay tiêu dùng cấp theo hình thức này là rất ít.
- Cho vay tuần hoàn: là khoản vay mà ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định, khách hàng có quyền vay và trả nhiều lần mà không vượt quá hạn mức tín dụng của mình. Loại vay này thường được áp dụng cho vay thấu chi, thẻ tín dụng.
Căn cứ vào nguồn gốc khoản nợ
- Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua lại các khoản nợ phát sinh do các công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng và thu lại từ khách hàng. Hình thức này ngân hàng cho vay thông qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu. Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Theo nguyên tắc người mua hàng phải trả trước một phần giá trị của hàng hoá. Cho vay tiêu dùng gián tiếp được thực hiện theo sơ đồ sau:
Hình 1.1: Sơ đồ tín dụng tiêu dùng gián tiếp.
(2)
CÔNG TY BÁN LẺ
NGÂN HÀNG
NGƯỜI TIÊU DÙNG
(1)
(4)
(5)
(6) (3)
(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu…
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hóa. Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị sản phẩm.
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4) Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho ngân hàng.
(5) Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.
- Cho vay trực tiếp: là hình thức cho vay mà ngân hàng trực tiếp gặp khách hàng để tiến hành đàm phán, ký kết hợp đồng tín dụng; khách hàng sẽ nhận tiền vay từ ngân hàng hoặc chuyển vào tài khoản của các doanh nghiệp mà họ sẽ mua hàng hóa, dịch vụ hoặc các chủ nợ của họ,… Ngân hàng và khách hàng sẽ ký kết hợp đồng vay và khách hàng vay sẽ trả trước một phần số tiền mua hàng cho công ty bán lẻ. Cho vay tiêu dùng trực tiếp được thực hiện theo sơ đồ sau:
NGƯỜI TIÊU DÙNG
Hình 1.2: Sơ đồ tín dụng tiêu dùng trực tiếp.
(3)
(1)
(5)
(2)
(4)
NGÂN HÀNG
CÔNG TY BÁN LẺ
(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay.
(2) Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ.
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ.
(4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(5) Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm linh hoạt hơn cho vay tiêu dùng gián tiếp. Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi thế phát sinh, có khả năng làm thỏa mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lẫn ngân hàng.
1.1.5. Vai trò của tín dụng bán lẻ
Đối với nền kinh tế
Tín dụng bán lẻ được dùng để tài trợ cho các nhu cầu chi tiêu về hàng hoá, dịch vụ trong nước nên nó có tác dụng rất tốt trong việc kích cầu, tạo điều kiện cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực tế, nhu cầu là vô hạn song “nhu cầu có khả năng thanh toán” mới đáng quan tâm. Tín dụng bán lẻ giúp người tiêu dùng được hưởng các tiện ích trước khi tích lũy đủ tiền và đặc biệt quan trọng hơn, nó rất cần thiết cho những trường hợp khi cá nhân có các chi tiêu có tính cấp bách như nhu cầu chi tiêu cho gia đình và y tế.
Đối với sản xuất kinh doanh, sự phát triển của tín dụng bán lẻ đồng nghĩa với việc tăng trưởng của cầu, tức là sức mua của người dân tăng lên, từ đó tạo nên sự sôi động cho thị trường hàng hoá tiêu dùng tạo nguồn sống cho các khu vực sản xuất trong nước. Các nhà sản xuất sẽ gia tăng sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường, tạo ra nhiều công ăn việc làm. Đồng thời, tạo ra sự cạnh tranh giữa các hãng sản xuất, các nhà kinh doanh về sản phẩm, mẫu mã, chủng loại và các nhà sản xuất sẽ tìm cách để có thể đáp ứng mọi thị hiếu người tiêu dùng. Một mặt thúc đẩy sản xuất phát triển, một mặt người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn, qua đó tạo sự năng động cho nền kinh tế, năng lực sản xuất của quốc gia sẽ đựợc cải thiện, đồng thời tạo sức hút đối với đầu tư nước ngoài. Cũng qua đó, nhà nước đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội là giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giảm tệ nạn xã hội, giải quyết tốt các vấn đề phúc lợi xã hội.
Tuy nhiên, việc gia tăng tiêu dùng quá mức sẽ làm giảm tiết kiệm, đầu tư trong nước. Việt Nam là một nước đang phát triển rất cần vốn cho đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị, do vậy, cần kết hợp giữa tiêu dùng và tiết kiệm hợp lý, cân đối kích thích nền kinh tế - xã hội phát triển.
Đối với ngân hàng
Vai trò của các NHTM đối với xã hội ngày càng được khẳng định hơn qua sự phát triển ngày càng hoàn thiện của hệ thống Ngân hàng nói chung và của NHTM nói riêng. Ngày nay, các NHTM đang phải cạnh tranh hết sức khốc liệt trong cuộc chiến giành thị phần, không chỉ cạnh tranh với các NHTM cùng hệ thống mà còn phải cạnh tranh cả với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Chính vì vậy, muốn tồn tại và phát triển các Ngân hàng phải không ngừng đổi mới, tìm tòi và đưa ra những dịch vụ mới ngày càng có nhiều tiện ích cho khách hàng, từ đó nâng cao thu nhập cho Ngân hàng. Thực tế đã chứng minh, có những NHTM lớn trên thế giới đã thu về những khoản lợi nhuận kếch xù từ việc cung cấp các khoản tín dụng bán lẻ. Thị trường tín dụng bán lẻ là thị trường mà tại đó quy mô của các khoản tín dụng thì nhỏ nhưng quy mô chung của cả thị trường thì vô cùng lớn và đa dạng. Vì vậy, các NHTM đang ngày càng quan tâm hơn đến việc phát triển thị trường tín dụng bán lẻ và có thể kỳ vọng tăng lợi nhuận thu được từ các khoản tín dụng bán lẻ.
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy rủi ro đối với TDBL thường rất nhỏ và cho vay cá nhân, hộ gia đình so với cho vay doanh nghiệp thường đơn giản hơn nhiều. Trong khi đó, nguồn thu của ngân hàng thông qua hoạt động TDBL cũng hết sức đáng kể do lãi suất TDBL hấp dẫn, đặc biệt là lãi suất thực trả rất cao. Điều này khiến cho hoạt động TDBL chiếm một tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng. Do vậy, việc mở rộng hoạt động TDBL cho cá nhân và hộ gia đình là một khuynh hướng kinh doanh có triển vọng và an toàn cho ngân hàng.
Việc thực hiện và tăng trưởng hoạt động TDBL cũng là một công cụ marketing rất hiệu quả, nhiều người sẽ biết tới ngân hàng hơn, từ đó mở rộng được mối quan hệ với các khách hàng. Ngân hàng sẽ có những thuận lợi trong hoạt động huy động vốn, đặc biệt là huy động vốn từ dân cư, giúp ngân hàng đa dạng hoá được sản
Đối với khách hàng
TDBL là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng. Do vậy, khách hàng của TDBL cũng chính là người tiêu dùng, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình. Nhờ những khoản TDBL, họ có thể mua sắm những hàng hoá cần thiết có giá trị cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và cải thiện cuộc sống ngay cả khi khả năng tài chính hiện tại của họ chưa cho phép.
Thực tế con người có rất nhiều nhu cầu thiết yếu và có ý nghĩa trong cuộc sống, các nhu cầu này ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng cùng với mức tăng lên của nền kinh tế và khoa học kỹ thuật. Do đó, với TDBL thì người tiêu dùng sẽ phối hợp được giữa việc thoã mãn các nhu cầu, yếu tố thời gian, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai. Ví dụ như nhu cầu về mua sắm, sửa chữa nhà cửa, mua các đồ dùng tiện nghi sinh hoạt, mua sắm các phương tiện như xe máy, ô tô, ...
Điều này có nghĩa là người tiêu dùng sẽ tìm cách để hưởng thụ trước số tiền sẽ có trong tương lai. Nếu phân tích theo khía cạnh tài chính, việc mượn tiền trước của Ngân hàng để tiêu dùng khiến chúng ta phải trả lãi thực chất cũng chỉ là cách quy đổi luồng tiền ta sẽ có tại một thời điểm nào đó trong tương lai về thời điểm hiện tại.
Chính những nguyên nhân trên, việc Ngân hàng thực hiện và mở rộng hoạt động TDBL sẽ đem đến cho người tiêu dùng những lợi ích tốt nhất. Người tiêu dùng là những người được hưởng trực tiếp và đều có những lợi ích do hình thức cho vay tiêu dùng mang lại. Tuy vậy người tiêu dùng cần tính toán để việc chi tiêu được hợp lý, không vượt quá mức cho phép và đảm bảo khả năng chi trả.
Tóm lại, TDBL xét về mọi mặt đều có lợi ích rất lớn trong việc thỏa mãn nhu cầu dân cư về tín dụng, tạo lợi nhuận và sự thịnh vượng cho ngân hàng cũng như nền kinh tế. Do vậy, thúc đẩy sự phát triển của TDBL là cần thiết, đặc biệt trong xu thế hội nhập toàn diện của Việt Nam.