tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) thuế sử dụng tài nguyên du lịch… Mặt khác, PTDL bền vững còn có tác động lan toả tích cực đến các ngành, lĩnh vực khác có liên quan (như nông nghiệp, công nghiệp và các ngành dịch vụ khác), thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác cùng phát triển. Nguồn thu từ du lịch tăng lên và ổn định có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế địa phương.
Hai là, PTDL bền vững đóng vai trò tích cực vào thực hiện mục tiêu ổn định chính trị - xã hội và tiến bộ xã hội ngày càng tăng, bảo tồn và tôn vinh các giá trị văn hoá truyền thống của địa phương. PTDL bền vững sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp và người dân thực hiện các hoạt động du lịch có hiệu quả. Nhờ đó, tạo ra ngày càng nhiều công ăn việc làm cho lao động địa phương, góp phần xoá đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống của người dân địa phương, góp phần tăng cường ổn định chính trị - xã hội, an ninh quốc phòng được giữ vững. PTDL bền vững tạo ra nhu cầu, điều kiện, đồng thời cũng đặt ra mục tiêu giữ gìn, bảo vệ và tôn tạo các công trình văn hoá vật thể và phi vật thể, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của địa phương.
Ba là, PTDL bền vững tạo điều kiện và đóng góp tích cực cho công tác bảo vệ môi trường và tài nguyên du lịch. PTDL bền vững đặt ra yêu cầu các địa phương phải coi trọng công tác bảo vệ môi trường cảnh quan ở các điểm du lịch, bảo đảm môi trường du lịch trong sạch. Mặt khác, PTDL bền vững sẽ có nguồn thu để quay trở lại đầu tư cho công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch.
Bốn là, PTDL bền vững góp phần nâng cao năng lực hội nhập quốc tế cho địa phương, đất nước. PTDL bền vững sẽ giúp quảng bá, lan tỏa hình ảnh tốt đẹp của địa phương, của quốc gia ra toàn thế giới, đạt được sự ghi nhận tích cực của bạn bè quốc tế, từ đó tạo thuận lợi cho việc mở rộng, thúc đẩy phát triển các quan hệ ngoại giao, hợp tác, hội nhập quốc tế.
1.1.4. Các tiêu chí đánh giá phát triển du lịch bền vững
1.1.4.1. Các tiêu chí về kinh tế
PTDL bền vững là sự phát triển phải đảm bảo sự tăng trưởng liên tục, đều đặn và lâu dài của các tiêu chí kinh tế: số lượng khách du lịch; doanh thu và giá trị gia tăng của ngành du lịch; hệ thống CSHT du lịch;... Theo xu thế phát triển trong nước và trên thế giới hiện nay, các tiêu chí về kinh tế được phát triển liên tục trong nhiều
năm (thường là trên dưới 10 năm) và ở mức tăng trưởng trung bình khoảng 7 - 10%/năm thì được coi là PTBV. Tuy nhiên, tùy thuộc vào trình độ phát triển và mức khởi điểm của mỗi nước khác nhau, mà các tiêu chí lựa chọn để đánh giá tính bền vững sẽ là cao hay thấp, cụ thể:
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy phát triển du lịch bền vững tỉnh Thanh Hóa - 2
- Đánh Giá Chung Về Tình Hình Nghiên Cứu Và Những Vấn Đề Đặt Ra Cho Đề
- Khái Niệm Phát Triển Du Lịch Bền Vững
- Vai Trò Của Giải Pháp Tài Chính Phát Triển Du Lịch Bền Vững
- Nội Dung Các Giải Pháp Tài Chính Đối Với Các Yếu Tố Thúc Đẩy Phát Triển Du Lịch Bền Vững
- Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy phát triển du lịch bền vững tỉnh Thanh Hóa - 8
Xem toàn bộ 274 trang tài liệu này.
- Số lượng khách du lịch: Số lượng khách du lịch quyết định sự thành công hay thất bại cũng như quyết định sự PTBV hay không bền vững của ngành du lịch. Để đánh giá được tính PTBV hay không của du lịch thì yêu cầu chỉ tiêu khách du lịch phải tăng trưởng liên tục trong một số năm liên tục (trên dưới 10 năm). Trong tiêu chí về khách du lịch, ngoài số lượng tuyệt đối về khách, các tiêu chí khác cũng cần phải xem xét trong quá trình đánh giá tính PTBV đó là: số ngày lưu trú bình quân, mức chi tiêu bình quân, mức độ hài lòng của khách…
- Doanh thu và giá trị gia tăng của ngành du lịch
+ Doanh thu của ngành du lịch: Doanh thu du lịch là một tiêu chí quan trọng hàng đầu đối với PTDL bền vững. Nó là thước đo cho sự PTBV hay không bền vững, doanh thu du lịch tăng lên đều đặn và trong thời gian dài thì mới được coi là PTBV, còn nếu doanh thu tăng không đều đặn và không ổn định thì không được coi là bền vững. Tiêu chí doanh thu du lịch liên quan chặt chẽ đến chỉ tiêu khách du lịch, sự tăng trưởng liên tục của khách du lịch sẽ kéo theo sự tăng trưởng về doanh thu.
+ Giá trị gia tăng của ngành du lịch: Giá trị gia tăng của ngành du lịch là chỉ tiêu quan trọng, sự tăng trưởng và gia tăng liên tục của tiêu chí này không những đánh giá trình độ phát triển của ngành mà còn cho thấy vị trí của ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Đây được coi là một trong những tiêu chí đánh giá PTDL bền vững về mặt kinh tế.
- Hệ thống cơ sở lưu trú (CSLT) du lịch: hệ thống CSLT trong ngành du lịch (bao gồm: các CSLT, ăn uống, vui chơi giải trí, các phương tiện vận chuyển…) là thước đo phản ánh trình độ phát triển của ngành du lịch. Sự phát triển cả về số lượng, loại hình, chất lượng và hiện đại của hệ thống CSLT du lịch, một mặt đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, mặt khác góp phần quan trọng vào việc quảng bá hình ảnh thương hiệu du lịch để từ đó có thể thu hút được nhiều khách du lịch từ mọi miền tổ quốc và quốc tế, đảm bảo cho quá trình PTDL bền vững.
1.1.4.2. Các tiêu chí về xã hội
Phát triển du lịch bền vững đòi hỏi ngành du lịch phải có những đóng góp không những về mặt kinh tế mà còn cả về mặt xã hội như:
- Đóng góp cho ngân sách địa phương: PTDL bền vững đồng nghĩa với việc thu NSNN từ du lịch ngày càng tăng lên. Từ nguồn thu tăng này địa phương mới có thêm nguồn lực để quay trở lại đầu tư cho PTDL và phúc lợi công cộng của địa phương.
- Tỷ lệ lao động địa phương đang làm việc trong ngành du lịch: PTDL bền vững cần phải đảm bảo lợi ích cho cộng đồng địa phương thông qua việc tạo ra số lượng công ăn việc làm, những lợi ích của cộng đồng và hạn chế những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến sự cân bằng của cộng đồng địa phương. Từ đó cải thiện đời sống người dân, nâng cao dân trí xã hội, và nâng cao ý thức của người dân về tầm quan trọng của du lịch và bảo vệ tài nguyên môi trường. Mặt khác, lao động địa phương là những người hiểu rõ nhất về danh lam, thắng cảnh của địa phương, thuận lợi cho việc quảng bá du lịch địa phương góp phần quan trọng cho ngành du lịch PTBV.
- Thu nhập của người lao động địa phương trong ngành du lịch: PTDL bền vững yêu cầu không những tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho lao động địa phương mà còn tạo ra thu nhập ngày càng tăng cho lao động địa phương. Thu nhập từ ngành du lịch tăng lên sẽ thu hút nhiều người dân địa phương làm việc trong ngành du lịch giúp giảm bớt các vấn đề tệ nạn xã hội ở địa phương.
1.1.4.3. Các tiêu chí về môi trường
PTDL bền vững đồng nghĩa với việc khai thác và sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả các tiềm năng tài nguyên du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch trong tương lai và quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường du lịch. Như vậy, để PTDL bền vững thì các tiêu chí về môi trường cần được đảm bảo đó là:
- Số lượng (tỷ lệ) các khu, điểm du lịch được đầu tư tôn tạo và bảo vệ: các khu, điểm du lịch là các mắt xích trong hoạt động du lịch, trong đó tài nguyên du lịch đóng vai trò quan trọng nhất. Tài nguyên du lịch càng đặc sắc, càng kỳ vĩ thì sức hấp dẫn và thu hút khách du lịch càng nhiều và sẽ dẫn đến mức độ sử dụng khu, điểm du lịch ở nơi đó càng cao. Như vậy, tiêu chí về số lượng các khu, điểm du lịch được đầu tư bảo tồn và tôn tạo với nguồn kinh phí từ NSNN ngày càng tăng lên được coi là một trong các tiêu chí cơ bản cho thấy tài nguyên du lịch đang được quan tâm.
- Số lượng (tỷ lệ) các khu, điểm du lịch được quy hoạch: Các khu, điểm du lịch quy hoạch được xác định dựa trên việc khai thác có hiệu quả tiềm năng của khu, điểm du lịch đó mang lại. Nếu như việc quy hoạch xây dựng các khu, điểm du lịch đó được phân tích và đánh giá đúng sẽ thu hút được nhiều khách du lịch, hạn chế tác động đến
tài nguyên - môi trường du lịch. Chính vì vậy, số lượng các khu, điểm du lịch được quy hoạch cũng là một tiêu chí không kém phần quan trọng trong quá trình PTDL bền vững về mặt môi trường.
- Bảo vệ môi trường du lịch: Môi trường tại các khu, điểm du lịch có vai trò quan trọng trong quá trình PTDL bền vững. Việc phát triển quá nhanh các hoạt động du lịch mà không chú trọng đến công tác bảo vệ và tác động của nó đến môi trường sẽ là nguyên nhân chính gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trường và ảnh hưởng đến quá trình PTDL bền vững. Việc đánh giá tác động môi trường tại các khu, điểm du lịch thông qua một số chỉ tiêu tăng lên như số nhà vệ sinh công cộng, hệ thống xử lý rác thải… là những tiêu chí quan trọng đảm bảo cho du lịch phát triển ngày càng bền vững.
1.1.5. Các yếu tố thúc đẩy phát triển du lịch bền vững
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính chất liên ngành, liên vùng cao, có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển KT - XH của địa phương nên PTDL trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, theo đúng định hướng bền vững không thể thiếu được cơ chế, chính sách của Nhà nước. PTDL bền vững chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố khách quan từ bên ngoài (thời gian rảnh rỗi và thu nhập của khách du lịch, sự tham gia cộng đồng dân cư địa phương,…) và yếu tố chủ quan có ý nghĩa định hướng và tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy PTDL bền vững của mỗi địa phương như (CSHT, NNL, hoạt động tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch, SPDL…). Các yếu tố chủ quan này là các hàng hoá dịch vụ công cộng (HHDVCC) thuần tuý và không thuần tuý. HHDVCC thuần tuý như: CSHT du lịch thiết yếu: đường quốc lộ, tỉnh lộ, sân bay, bến cảng; các cơ sở đào tạo NNL du lịch như các trường Đại học; cao đẳng; các dịch vụ quảng bá xúc tiến du lịch quốc gia… các hàng hoá này do Nhà nước (Trung ương hoặc địa phương) đầu tư bằng vốn NSNN thông qua các khoản chi đầu tư hoặc chi thường xuyên. Các HHDVCC không thuần tuý như các kết cấu hạ tầng du lịch không thiết yếu (đường xá nội bộ; xử lý nước, rác thải; vệ sinh công cộng); các hoạt động tập huấn bồi dưỡng NNL; các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch của doanh nghiệp; SPDL… Những loại HHDVCC không thuần tuý này có thể được đầu tư bằng cả vốn nhà nước và vốn tư nhân theo hình thức PPP; hoặc có thể do tư nhân bỏ vốn đầu tư. Vì vậy, luận án chủ yếu nghiên cứu các
yếu tố chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi và cơ sở thúc đẩy PTDL bền vững, đặc biệt là các yếu tố mang tính chủ quan của địa phương để có những biện pháp điều chỉnh phù hợp. Các yếu tố được nghiên cứu bao gồm: CSHT du lịch, NNL du lịch; hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch và SPDL. Các yếu tố này có tác động đan xen lẫn nhau, vừa thúc đẩy, vừa kìm hãm sự PTDL bền vững ở mỗi địa phương, trong đó các yếu tố chủ quan có ý nghĩa quyết định đến việc PTDL theo đúng định hướng bền vững của Nhà nước.
1.1.5.1. Cơ sở hạ tầng du lịch
Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống đường xá, nhà ga, sân bay, bến cảng, đường sắt, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cấp thoát nước, mạng lưới điện, nhà vệ sinh công cộng, hệ thống các công trình hỗ trợ… các yếu tố này còn được xem là những yếu tố đảm bảo điều kiện cho việc phát triển KT - XH nói chung và ngành du lịch nói riêng. Bởi vì, đối với ngành du lịch, nó là yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chuyến đi của khách du lịch, rút ngắn thời gian đi lại, thoả mãn được nhu cầu thông tin liên lạc và các tiện ích khác trong quá trình thực hiện chuyến tham quan. Trong các yếu tố CSHT, thì yếu tố quan trọng và ảnh hưởng nhiều nhất đối với ngành du lịch đó là mạng lưới giao thông vận tải vì nó liên quan trực tiếp đến quá trình thực hiện chuyến đi như: rút ngắn thời gian đi lại, đảm bảo an toàn, đảm bảo sức khoẻ, tiện nghi cho khách du lịch… từ đó kéo dài thời gian lưu lại của khách du lịch đến địa phương. Như vậy, mạng lưới giao thông vận tải thuận lợi, đồng bộ sẽ thu hút ngày càng nhiều khách đến tham quan du lịch. Sau đó là các yếu tố cũng không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến PTDL bền vững đó là hệ thống cấp thoát nước, hệ thống cung cấp điện, hệ thống nhà vệ sinh công cộng, mạng lưới thông tin liên lạc và internet… đây là những yếu tố được xây dựng để phục vụ nhân dân địa phương, sau nữa là phục vụ cả khách du lịch đến tham quan du lịch địa phương.
Như vậy, việc phát triển CSHT du lịch và đặc biệt là việc đầu tư phát triển các hệ thống các khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí, phương tiện vận chuyển… ở khu du lịch trọng điểm có sức cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế sẽ tạo ra những khu du lịch hiện đại, tầm cỡ, xứng đáng là ngành mũi nhọn của địa phương, đất nước. Mặt khác, đối với phát triển CSHT du lịch, việc huy động nguồn
vốn từ ngoài NSNN là hết sức cần thiết. Việc phát triển CSHT du lịch đòi hỏi phải có một lượng vốn tương đối lớn, vì vậy tín dụng nhà nước và các chính sách ưu đãi dành cho lĩnh vực này có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc hỗ trợ vốn cho đầu tư xây dựng CSHT du lịch. Như vậy, CSHT du lịch là yếu tố nền tảng, cơ sở ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút khách du lịch và nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào PTDL bền vững. Hơn nữa, nhà đầu tư sẽ không bỏ vốn đầu tư vào những địa phương mà có CSHT du lịch không đồng bộ, kém phát triển.
1.1.5.2. Chất lượng nguồn nhân lực du lịch
Du lịch là một ngành có nhu cầu cao đối với đội ngũ lao động sống. Do đặc thù của SPDL không tồn tại dưới dạng vật thể và quá trình tạo ra sản phẩm cũng đồng thời là quá trình tiêu dùng sản phẩm. Do đó, trong hoạt động du lịch, chất lượng đội ngũ lao động luôn là yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của các SPDL, chất lượng dịch vụ và kết quả cuối cùng là ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, đến sự tăng trưởng các chỉ tiêu khác. Như vậy, chất lượng đội ngũ lao động được đào tạo không chỉ là yếu tố thu hút khách, nâng cao uy tín của ngành, của đất nước mà còn là một yếu tố quan trọng trong cạnh tranh thu hút khách, đảm bảo sự PTBV. Để nâng cao chất lượng NNL thì công tác đào tạo NNL du lịch theo hướng không những nâng cao về trình độ chuyên môn mà còn phải giỏi kỹ năng nghề nghiệp, khả năng giao tiếp tốt, thông thạo ngoại ngữ, được trang bị kiến thức về tài nguyên, quản lý môi trường, kinh tế môi trường, luật môi trường, và hệ thống kiến thức sâu rộng về xã hội. Sự phát triển cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ lao động du lịch sẽ đảm bảo cho du lịch phát triển về mặt chất lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm và như vậy sẽ góp phần đáng kể vào quá trình PTDL bền vững. Việc đầu tư phát triển NNL du lịch thể hiện quan điểm điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với sự nghiệp phát triển NNL nói chung và NNL du lịch nói riêng nên nguồn vốn đầu tư từ phía nhà nước chiếm vai trò chủ đạo, tuy nhiên trong điều kiện nguồn vốn NSNN ngày càng hạn hẹp thì yêu cầu đặt ra là cần phải đẩy mạnh nguồn vốn xã hội hoá để huy động mọi nguồn lực từ bên ngoài vào phát triển NNL du lịch.
1.1.5.3. Hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch
Tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào cũng luôn luôn là việc làm quan trọng và cần thiết. Hoạt động này không chỉ quan trọng đối với
riêng ngành du lịch mà đối với hầu hết các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Đối với mục tiêu PTDL bền vững, hoạt động này lại ngày càng quan trọng, vì ngoài việc quảng bá để mở rộng thị trường du lịch còn phải tuyên truyền, giáo dục người dân và khách du lịch có ý thức bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch. Nói cách khác, phải tăng cường các hình thức tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch nhằm thu hút khách du lịch, tăng cường tính trách nhiệm của người dân và khách du lịch, mặt khác giới thiệu các SPDL là thế mạnh của địa phương để thu hút khách du lịch và nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào PTDL bền vững.
Như vậy, việc phát triển SPDL, đặc biệt là SPDL đặc thù có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra những thương hiệu du lịch khác biệt và có sức hấp dẫn lớn, từ đó đẩy mạnh việc thu hút du khách và nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch. Tuy nhiên, để nâng cao thị phần du lịch cần ưu tiên công tác xúc tiến, quảng bá các SPDL chất lượng cao, đẳng cấp của địa phương và như vậy, trong các giải pháp tài chính thì chi NSNN được xem là giải pháp hỗ trợ đắc lực được sử dụng để đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch góp phần làm nổi bật hình ảnh du lịch của địa phương, của quốc gia.
1.1.5.4. Sự đa dạng các sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ trên cơ sở khai thác giá trị tài nguyên du lịch để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch [74]. Như vậy với mỗi loại tài nguyên du lịch khác nhau thì sẽ có tiềm năng để phát triển các loại SPDL khác nhau. Tài nguyên du lịch là điều kiện, là yếu tố đầu vào quan trọng để hình thành SPDL, đồng thời cũng là yếu tố tác động đến PTDL bền vững. Số lượng, chủng loại, cơ cấu, mức độ đa dạng, vị trí và khả năng khai thác của tài nguyên du lịch có tác động trực tiếp và rất lớn đến việc xác định định hướng, mục tiêu phát triển SPDL đặc trưng của địa phương. Việc xác định SPDL nào là tiềm năng, thế mạnh, đặc trưng của địa phương để từ đó Nhà nước có chiến lược đầu tư đúng đắn sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy du lịch PTBV. Với những địa phương có hệ thống tài nguyên du lịch nghèo nàn và việc xác định SPDL không phù hợp với lợi thế tài nguyên du lịch sẽ kìm hãm sự phát triển SPDL của địa phương đó. Mặt khác, vai trò dẫn dắt, định hướng và đầu tư của Chính phủ, địa phương sẽ tạo ra những SPDL đặc thù làm cơ sở để thu hút nguồn vốn từ bên ngoài vào phát triển SPDL theo đúng định hướng PTBV của Nhà nước đề ra.
1.2. GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
1.2.1. Khái niệm và vai trò của giải pháp tài chính phát triển du lịch bền vững
1.2.1.1. Khái niệm giải pháp tài chính phát triển du lịch bền vững
Tài chính là một phạm trù kinh tế ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ. Biểu hiện bên ngoài của tài chính được thể hiện ra dưới dạng các hiện tượng thu vào và chi ra bằng tiền ở các chủ thể KTXH hay là sự vận động của vốn tiền tệ. Bản chất bên trong của tài chính phản ánh các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình phân phối các nguồn tài chính, quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Các quan hệ kinh tế như thế gọi là các quan hệ tài chính, biểu hiện mặt bản chất bên trong của tài chính ẩn dấu sau các biểu hiện bên ngoài của của tài chính [15,tr14]. Tài chính có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng kiểm tra giám sát. Việc vận dụng tổng hợp và đúng đắn hai chức năng này sẽ có tác động tích cực kích thích nền kinh tế phát triển, góp phần khơi dậy và giải phóng mọi nguồn lực trong xã hội, tạo ra sự ổn định và PTBV, thực hiện công bằng xã hội.
Tài chính mặc dù được diễn đạt theo các cách khác nhau, song về cơ bản các quan niệm đều có chung một vấn đề, đó là liên quan đến việc ra quyết định và mục đích cuối của mỗi chủ thể gắn liền với các quỹ tiền tệ nhất định trong xã hội. Vấn đề cơ bản và cốt lõi nhất về bản chất của tài chính đều được thể hiện qua các hoạt động tài chính cụ thể - đó chính là sự phân bổ các nguồn lực tài chính.
Giải pháp là một thuật ngữ đề cập đến cách thức giải quyết một vấn đề nào đó trong thực tiễn. Cách thức giải quyết vấn đề được thực hiện thông qua các công cụ nhất định dựa trên các mục tiêu, định hướng đã đề ra. Với cách tiếp cận đó, tác giả cho rằng ‘‘Giải pháp tài chính là tổng thể các cách thức và biện pháp mà chủ thể quản lý sử dụng các công cụ tài chính để tác động vào lợi ích của các đối tượng khác nhau nhằm đạt được mục tiêu nhất định”. Hệ thống các công cụ tài chính này bao gồm: chi NSNN; thuế; tín dụng Nhà nước... Mỗi một công cụ tài chính tác động đến quá trình phân phối và ảnh hưởng đến quá trình kinh tế theo những phương thức và cách thức khác nhau. Thông qua việc tổ chức thực thi các công cụ này, cho phép đánh giá tính hiệu quả của chúng, đồng thời phải xem xét chúng trên nhiều khía cạnh để thấy được các tác động tổng hợp.