Về Cán Cân Thanh Toán Và Năng Lực Tài Chính Của Dn


tra giấy phéo NK khi phát hành thư tín dụng, gây ra sự không thống nhất trong phục vụ khách hàng của ngân hàng.

Các văn bản quy định về công tác XNK, thuế quan hải quan của Việt Nam chưa ổn định, thay đổi thường xuyên đã gián tiếp làm ảnh hưởng công tác TTQT.

Thị trường hối đoái thực chất là thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng của Việt Nam hoạt động chưa có hiệu quả. Hiện nay, Việt Nam mới có thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tuy nhiên hoạt động của thị trường liên ngân hàng còn kém sôi động, đơn điệu, chủ yếu dừng lại ở mua bán trao ngay. Thành viên tham gia thị trường còn hạn chế, chỉ có các ngân hàng thương mại và Sở giao dịch Ngân hàng nhà nước.

2.3.2.3. Về cán cân thanh toán và năng lực tài chính của DN

Cán cân thanh toán của Việt Nam thâm hụt làm ảnh hưởng tới hoạt động TTQT. Do cán cân vãng lai và cán cân thương mại của Việt Nam luôn bị thâm hụt lơn dẫn đến mất cân đối giữa cung và cầu về ngoại tệ làm ảnh hưởng tơi khả năng chi trả ngoại hối của các ngân hàng thương mại.

- Thực lực tài chính của các DN Việt Nam còn quá yếu kém. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp dựa chủ yếu vào vốn vay của ngân hàng, do vậy, khi kinh doanh buôn bán với nước ngoài bị lừa đảo, thua lỗ liên quan trực tiếp tới chất lượng tín dụng, uy tín trong TTQT của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Đặc biệt trong mấy năm gần đây, khi biên giới mở cửa, nhiều DN hăm hở gom hàng để xuất khẩu. Sau 1 vài phi vụ nhỏ làm ăn trót lọt, đến phi vụ lớn liền bị đối tác nước ngoài lừa ép giá buộc phải bán tống bán tháo, thạm chí còn không thu được tiền do bị đối tác nước ngoài lừa trong các điều kiện chứng từ thanh toán theo tín dụng thư đã mở. Hậu quả là tiên mất, tật mang, một số giám đôc phải ra hầu tòa, còn ngân hàng trong mối liên quan là chủ nợ hoặc trung gian thanh toán đều bị thiệt hại.

2.3.2.4. Do làm ăn của khách hàng không minh bạch.


Sự cố tình vi phạm cam kết với các ngân hàng của các DN XNK. Có nhiều trường hợp khách hàng yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh nhận hàng trước khi nhận chứng từ qua ngân hàng và cam kết thanh toán tiền hàng. Nhưng trên thực tế, DN đã bội ước mà không thực hiện cam kết đó. Sự bội ước này do những nguyên nhân khách quan như sự biến động của thị trường tiêu thụ, hàng nhập về không bán được nhưng bán được nhưng DN bị lỗ và không có khả năng thanh toán với ngân hàng. Nhưng phần nhiều là do sự cố tình vi phạm của DN tư nhân, khi đã bán hết hàng nhưng không chịu nạp tiền vào ngân hàng để thanh toán mà đem đi tiếp tục đầu tư vào kinh doanh và bị thua lỗ thì mất khả năng thanh toán. Trường hợp khách hàng NK, vì lợi ích riêng của DN đã bội ước với ngân hàng, tân dụng sơ hở này của ngân hàng mà chây ỳ trong thanh toán. Phía thương nhân nước ngoài thì lợi dụng đặc điểm thanh toán L/C là thông qua chứng từ, chư không phụ thuộc vào hàng hóa, do vậy đã cố tình gian lân thương mại, giao hàng thiếu hoặc không đúng phẩm chất, thậm chí không giao hàng nhưng vẫn lập chứng từ giả xuất trình đến ngân hàng để rút tiền về.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.

2.3.2.5. Do nền kinh tế hay chế độ chính trị của nước có liên quan:

Do những thay đổi về chính sách kinh tế vĩ mô của đất nước có thể làm ảnh hưởng tới TTQT. Như sự thay đổi về tỷ giá hối đoái, khi tỷ giá đồng Việt Nam biến động mạnh so với ngoại tệ, nghĩa là VND mất giá mất giá lập tức hàng nhập khẩu về khó bán và các DN NK mất đi 1 lượng VND nhiều hơn để cân đối nguồn ngoại tệ cho thanh toán với nước ngoài, và rủi ro đến với ngân hàng khi nhà NK không cân đối được nguồn tiền thanh toán. Hoặc khi thay đổi chính sách thuế quan nhập khẩu, thay đổi quy chế quản lý ngoại hối,... đều làm ảnh hưởng đến hoạt động TTQT.

Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro toán tín dụng chứng từ đối với Sở giao dịch Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - 7

Rủi ro chính trị trong TTQT (hay còn gọi là rủi ro quốc gia) là những rủi ro bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế - chính trị của nước có liên quan trong quá trình thanh toán. Mọi biến động về kinh tế chính trị của 1 nước sẽ liên quan tới khả năng và sự sẵn sàng đáp ứng các cam kết như thỏa thuận của các


bên. Sự suy thoái kinh tế của 1 nước sẽ ảnh hưởng bất lợi tới sự vận động của tự do thương mại, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN từ đó ảnh hưởng xấu tới quá trình thanh toán.

Rủi ro chính trị thường hay gặp nhất đó là rủi ro do sự thay đổi của môi trường pháp lý, đặc biệt ở những nước có hệ thống pháp luật chưa ổn định, thường xuyên sửa đổi bổ sung. Những rủi ro pháp lý thường liên quan tới các quốc gia hay áp đặt hay thay đổi mạnh các yêu cầu về dự trữ ngoại hối, các quy định cản trở hạn chế XNK. Trong thực tế những thay đổi này thường khiến các nhà XNK và các ngân hàng không thực hiện được nghĩa vụ của mình, làm cho L/C bị hủy bỏ gây thiệt hại cho các bên liên quan.

Kết luận chương 2

Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam là đơn vị luôn dẫn đầu trong hoạt động TTQT của Ngân hàng Ngoại Thương. Hoạt động kinh doanh trong những năm gần đây của Ngân hàng tuy gặp không ít khó khăn do sự cạnh tranh quyết liệt của các ngân hàng khách nhưng nhìn chung vẫn tăng trưởng khá đều đặn. Trong số các hoạt động nghiệp vụ tại Ngân hàng hoạt động TTQT và các hoạt động liên quan khác như kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh… vẫn là thế mạnh truyền thống của ngân hàng.

Chương 2 của khóa luận đã thực hiện được những nội dung sau:

Thứ nhất: Khái quát về hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam và phân tích đánh giá thực trạng rủi ro trong hoạt động TTQT của ngân hàng.

Thứ hai: Từ phân tích và đánh giá thực trạng, khóa luận chi rõ nguyên nhân dẫn đến rủi ro làm cơ sở đưa ra các giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động TTQT của ngân hàng trong chương 3.



CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO

TRONG THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM


3.1. Định hướng quản lý rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam


3.1.1. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế

- Mục tiêu năm 2009:

Một là, nâng cao chất lượng của hoạt động thanh toán quốc tế. Với tình hình khủng hoảng kinh tế đang diễn ra sâu và rộng như hiện nay thì đây là việc làm hết sức cần thiết, có ý nghĩa sống còn.

Hai là, phấn đấu giữ vững vai trò là ngân hàng hàng đầu về thanh toán quốc tế và là đơn vị chiếm tỷ trọng tổng kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu lớn nhất trong hệ thống VCB. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, giữa các chi nhánh với nhau cũng có những chiến lược khác nhau nhằm thu hút khách hàng hoặc thanh toán qua chi nhánh của mình. Vì vậy, mục tiêu đặt ra của SGD là tạo ra một chính sách khách hàng mang tầm chiến lược và toàn diện, là sự phối kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa các bộ phận, các phòng chức năng.

Ba là, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế về thanh toán quốc tế. Sân chơi toàn cầu hoá đã mang đến cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Vietcombank nói riêng nhiều cơ hội nhưng cũng đầy rẫy những thách thức. Giờ đây Vietcombank không chỉ phải chấp nhận cạnh tranh với các NHTM cổ phần trong nước mà còn phải sẵn sàng cạnh tranh với cả các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại thị trường Việt Nam. Vì vậy, Vietcombank cần phải chấp nhận đương đầu với thách thức, phấn đấu giữ vững vai trò là ngân hàng hàng đầu về thanh toán quốc tế.

Những năm tiếp theo

Hỗ trợ nghiên cứu xây dựng một mô hình tổ chức mới cho hoạt động tài trợ thương mại, chuyển tiền phù hợp với hoạt động của một ngân hàng hiện đại. Mô hình được xây dựng trên nền tảng công nghệ thuộc chương trình dự án "Hiện đại hoá hệ thống ngân hàng và hệ thống thanh toán" của World Bank. Sắp xếp lại hoạt động thanh toán XNK theo hướng đẩy mạnh tài trợ thương mại thanh toán XNK, phát triển các sản phẩm tài trợ mới, tiếp tục ập trung hoá xử lý các giao dịch tài trợ thương mại tại SGD.

Cụ thể:


- Từng bước cơ cấu lại các mảng hoạt động thanh toán quốc tế theo mô hình tiên tiến hiện đại. Mô hình này gồm các khối tài trợ thương mại quốc tế, khối trung tâm chuyển tiền, khối định chế tài chính, phù hợp với chiến lược và đề án tái cơ cấu của VCB.

- Ứng dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng hoạt động thanh toàn quốc tế. Mục đích của việc này nhằm đảm bảo yêu cầu phục vụ đa dạng các loại hình đối tượng khách hàng là tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và cá nhân bằng các sản phẩm dịch vụ phong phú thích hợp với từng loại đối tượng.

- Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng quốc tế kể cả mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng khắp các châu lục

- Hoạt động thanh toán quốc tế không tách rời các mảng hoạt động khác của ngân hàng như huy động vốn, tín dụng, kinh doanh ngoại tệ. Khách hàng rất đa dạng gồm các ngân hàng đại lý, các doanh nghiệp, người Việt Nam và nước ngoài, các tổ chức quốc tế đòi hỏi VCB phải xây dựng chiến lược tổng thể về chính sách giá cả dịch vụ đồng bộ với chính sách về vốn, tín dụng, ngoại tệ thì mới hỗ trợ và thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh toán quốc tế phát triển. Ngược lại, hoạt động thanh toán quốc tế là mắt xích quan trọng gắn kết các mảng hoạt động của ngân hàng trong một số hệ thống máy liên hợp mà thiếu một bộ phận nào đó thì hệ thống máy đó không hoạt động trơn tru hài hoà.

3.1.2. Định hướng quản lý rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ

Một là, phòng ngừa hạn chế rủi ro trong TTQT nói chung và TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng cần phải xuất phát từ mục tiêu phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế

Nền kinh tế Việt Nam vận động và phát triển trong xu thế chung của nền kinh tế khu vực và thế giới, đó là sự thích nghi và hội nhập, nhằm đảm bảo sự nỗ lực tăng cường khả năng cạnh tranh trên cơ sở hòa hợp cùng phát triển. Tính chất quốc tế hóa này đặt ra trong từng ngành từng lĩnh vực của nền


kinh tế những yêu cầu về nội dung và giải pháp khác nhau. TTQT cũng vậy, phải kết hợp đồng bộ với các cấp nghành liên quan, từng chủ thể để đạt tới mục tiêu như: hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, tiêu chuẩn hóa thông tin và các chứng từ thanh toán, đồng bộ hóa trình tự TTQT, quốc tế hóa mọi hoạt động nghiệp vụ của hệ thống ngân hàng, đồng nhất hóa các quy phạm pháp lý và tập quán về TTQT giữa các nước. Trên sự thống nhất đó sẽ tạo điều kiện cho sự trao đổi thương mại giữa các nước diễn ra công bằng và trên nguyên tắc 2 bên cùng có lợi, mọi rủi ro trong thanh toán sẽ được hạn chế.

Hai là, nhìn nhận hoạt động TTQT là một trong những hoạt động cơ bản trong kinh doanh của ngân hàng.

Tuy trên thực tế thu nhập từ hoạt động TTQT chỉ chiếm phần nhỏ trong tổng nguồn thu của ngân hàng, song nếu ngân hàng nào có hoạt động TTQT tốt sẽ kéo theo hoạt động đầu tư tín dụng và kinh doanh ngoại tệ phát triển. Nó đã trở thành dịch vụ không thể thiếu trong hệ thống dịch vụ ngân hàng cung ứng cho khách hàng và là điểm kết thúc cho mọi hoạt động kinh tế đối ngoại. Do vậy khi xác định giải pháp phòng ngừa rủi ro cần xem nó là 1 hoạt động kinh doanh để mà đẩy mạnh như các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng. Đây là 1 hoạt động mang tính chất dịch vụ nhằm đẩy mạnh và thực hiện các hoạt động khác của ngân hàng phát triển nhằm thu lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế 1 cách tối ưu. Vì vậy cần đi tiên phong trong hiện đại hóa, dịch vụ phải nhanh, chính xác, giá cả cạnh tranh và phục vụ thiết thực nhu cầu XNK của đất nước


Ba là, dựa vào nhu cầu của khách hàng để đưa ra giải pháp

Trước hết trong hoạt động kinh doanh ngân hàng với 3 chức năng cơ bản là trung tâm tín dụng, trung tâm thanh toán, trung tâm tiền mặt của nền kinh tế đã tạo cho ngân hàng những khả năng kinh doanh kỳ diệu song cũng đặt ngân hàng vào trạng thái kinh doanh hết sức khó khăn. Hiệu quả hoạt động của Ngân hàng, khả năng sinh tồn hay thất bại của nó phụ thuộc chủ yếu


vào khách hàng, vào sự tín nhiệm của người gửi tiền và người vay tiền cũng như những người sử dụng dịch vụ. Như vậy, đòi hỏi phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để xác định hạn chế rủi ro trong hoạt động TTQT.

3.2. Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

3.2.1. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của thanh toán viên làm công tác TTQT

Hiệu quả làm việc xuất phát đầu tiên từ con người. Trong công tác TTQT lại càng đòi hỏi trình độ của người lao động, vì đây là lĩnh vực, công việc phức tạp khó về cả môi trường, nghề nghiệp... ở nước ta trong thời gian qua , do trình độ cán bộ làm TTQT còn bị hạn chế cũng gây ra rủi ro lớn cho công tác TTQT. Do đó cần phải tiếp tục nâng cao trình độ nghiệp vụ của người lao động trong lĩnh vực này. Đó là: cán bộ thanh toán cần nắm vững, bám sát UCP600, những quan điểm về thanh toán, vận tải, bảo hiểm, phong tục tập quán, luật pháp của từng khu vực thị trường trên thế giới. Với tư cách là ngân hàng của người xuất khẩu ta phải căn cứ vao UCP để đòi đối phương trả tiền đúng hạn; khi đại diện cho người nhập khẩu phải nghiêm chỉnh thực hiện UCP để giữ vững và tạo niềm tin trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, NH cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo nhằm trao đổi, học tập kinh nghiệm lấn nhau trong nội bộ ngân hàng và với ngân hàng bạn, nâng cao các nghiệp vụ liên quan như vận tải và bảo hiểm ngoại thương, chú trọng cập nhật các quy định và luật pháp nhà nước về xuất khẩu hay tổ chức các lớp học để đào tạo sâu hơn về hcuyên môn thanh toán. Những khóa học này cần mở rộng cho mọi nhân viên có điều kiện tham gia. Mời các chuyên gia hàng đầu về thanh toán quốc tế giảng dạy để các cán bộ nhân viên Ngân hàng trong các bộ phận liên quan có điều kiện trau dồi cả về nghiệp vụ cũng như ngoại ngữ.

Muốn thực hiện được nghiệp vụ thanh toán quốc tế, Ngân hàng phải có đội ngũ cán bộ được đào tạo và thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán quốc tế, sử dụng thành thạo các máy móc, thiết bị trong hoạt động thanh toán quốc tế.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/09/2023