Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Tín Dụng Trung Và Dài Hạn


Chỉ tiêu doanh số thu nợ T&DH

Chỉ tiêu doanh số thu nợ T&DH phản ánh lượng vốn T&DH mà ngân hàng đã được hoàn trả trong một thời kỳ. Doanh số này có thể phản ánh tình trạng trái ngược nhau: Doanh nghiệp do tình hình kinh doanh ổn định mà trả nợ ngân hàng đúng hạn hoặc ngân hàng nhận thấy những dấu hiệu không lành mạnh trong kinh doanh của khách hàng mà tăng cường việc thu hồi vốn. Cả hai trường hợp trên doanh số thu nợ đều tăng lên, điều đó có lợi cho ngân hàng.

Chỉ tiêu vòng quay vốn T&DH



Vòng quay vốn T&DH =

Doanh số thu nợ T&DH


Tổng dư nợ tín dụng T&DH bình quân

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.


Chỉ tiêu này cho ta biết ngân hàng thu nợ theo kế hoạch trong hợp đồng tín dụng được bao nhiêu để có thể lại cho vay dự án mới. Hay phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng trong vòng 1 năm. Thông thường, vòng quay của vốn càng lớn thì càng tốt vì điều đó khẳng định ngân hàng thu được nhiều nợ và chứng tỏ nguồn vốn T&DH ngân hàng đã đầu tư hoạt động có hiệu quả. Chính vì thế một đồng vốn khi cho vay được nhiều lần sẽ đem lại lợi nhuận nhiều hơn. Ngược lại, nếu vòng quay của vốn càng nhỏ thì việc thu nợ của ngân hàng là kém và nguồn vốn T&DH mà ngân hàng đã đầu tư hoạt động kém hiệu quả. Tuy nhiên, cũng cần xem xét đến một nhân tố quan trọng là dư nợ bình quân. Khi dư nợ bình quân thấp sẽ làm cho vòng quay lớn nhưng lại không phản ánh chất lượng tín dụng cao bởi nó thể hiện khả năng cho vay kém hiệu quả của ngân hàng. Do đó, cần xem xét trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác.

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh tỉnh Phú Thọ - 4

Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn T&DH



Tỷ lệ nợ quá hạn T&DH =

Nợ quá hạn của tín dụng T&DH


Tổng dư nợ tín dụng T&DH


Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn T&DH cho biết tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng T&DH

trong tổng dư nợ tín dụng T&DH. Tỷ lệ này càng thấp chứng tỏ sử dụng nguồn vốn


có hiệu quả. Tuy nhiên, để xác định chính xác cần xem xét các nguyên nhân của nó.

Nợ quá hạn T&DH/ Tổng nợ quá hạn

Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ nợ quá hạn của T&DH chiếm bao nhiêu phần trăm

trong tổng dư nợ tín dụng. Tỷ lệ này không có hoặc càng nhỏ càng tốt.

Đây là hai chỉ tiêu tương đối được sử dụng chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng T&DH. Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng đều chứa đựng nhiều rủi ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn trong kinh doanh của ngân hàng. Do vậy, việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho đúng thời hạn thể hiện thông qua tỷ lệ nợ quá hạn thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý ngân hàng liên quan đến sự sống còn của ngân hàng.

Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu T&DH



Tỷ lệ nợ xấu T&DH =

Nợ xấu tín dụng T&DH

Tổng dư nợ tín dụng T&DH

Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu T&DH là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng T&DH. Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5 quy định tại điều 6 và điều 7 của quyết định này. Tỷ lệ này càng cao cho thấy rủi ro từ hoạt động này càng lớn, hiệu quả hoạt động không cao.

Cho vay về nguyên tắc là phải dựa trên sự hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn, đây là cơ sở để đánh giá chất lượng cho vay. Một món vay không thể hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn như trong hợp đồng mà không đưa ra lý do chính đáng thì phải chuyển sang nợ xấu. Những khoản nợ xấu không được hưởng lãi suất bình thường như ghi trong hợp đồng mà phải chịu phạt với lãi suất cao hơn.

Những khoản nợ xấu do nhiều nguyên nhân khác nhau như do làm ăn thua lỗ, sử dụng vốn sai mục đích đã ghi trong hợp đồng tín dụng, hay cũng có thể do chây ỳ…Vì những nguyên nhân này đã làm cho ngân hàng có thể bị mất vốn, bị chiếm dụng vốn, như vậy nợ xấu phát sinh là tất yếu không tránh khỏi trong nền kinh tế thị trường. Đánh giá chất lượng tín dụng của một ngân hàng người ta thường


dùng chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ và nếu chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng kém và ngược lại nếu tỷ lệ ngày càng thấp thì chất lượng tín dụng tại ngân hàng đó càng tốt.

Một ngân hàng được xem là một ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt khi tỷ lệ xấu của nó nhỏ hơn hoặc bằng 5% và ngược lại với một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ lớn hơn 5% là ngân hàng có chất lượng tín dụng không tốt.

Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu này để đánh giá thì không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả cao và chính xác do tỷ lệ này bị tác động rất lớn của các hoạt động cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng quy định.

Nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận


Tỷ lệ lợi nhuận = Lợi nhuận từ tín dụng T&DH


Tổng dư nợ tín dụng T&DH

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng T&DH. Nó cho biết một đồng dư nợ tín dụng T&DH mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nếu trong điều kiện thị trường và rủi ro như nhau thì chỉ tiêu này cao càng có lợi cho ngân hàng, chứng tỏ chất lượng tín dụng T&DH tại ngân hàng càng tốt, mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.

Ngoài ra có thể xét thêm chỉ tiêu Lợi nhuận tín dụng T&DH/ Tổng lợi nhuận. Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả tín dụng T&DH và vai trò của chúng trong toàn bộ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, vì mục tiêu kinh tế - xã hội hay chiến lược phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn, những ngành công nghiệp non trẻ hay thực hiện được chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước thì đôi khi mục tiêu lợi nhuận không phải là hàng đầu. Vì vậy, khi dùng các chỉ tiêu này để phân tích chúng ta phải xem xét tổng hợp các mục tiêu của dự án vay vốn T&DH.

Tóm lại, các chỉ tiêu đánh giá, xem xét chất lượng tín dụng phải luôn được xem xét phân tích thường xuyên tổng hợp các chỉ tiêu, cả về lợi nhuận thuần tuý và lợi ích xã hội, cả trên quan điểm ngân hàng. Thực hiện được điều này sẽ giúp cho


bản thân các ngân hàng cũng như khách hàng đánh giá được chất lượng tín dụng một cách chính xác đầy đủ nhất. Qua đó, có thể giải quyết được những hạn chế, vướng mắc cũng như phát huy được những ưu điểm để nâng cao chất lượng tín dụng T&DH, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước.

1.2.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn

1.2.3.1 Những nhân tố khách quan

Môi trường kinh tế:

Môi trường kinh tế dù thay đổi theo chiều hướng nào cũng đều tác động tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu sự thay đổi theo chiều hướng tốt thì chất lượng của các khoản tín dụng T&DH sẽ được nâng cao. Ngược lại, sự thay đổi theo chiều hướng xấu thì sẽ làm cho chất lượng các khoản tín dụng T&DH xấu đi ngoài ý muốn.

Không chỉ môi trường kinh tế trong nước mà cả môi trường kinh tế thế giới cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với doanh nghiệp hoạt động xuất, nhập khẩu trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương Mại thế giới. Sự thay đổi ấy thể hiện trực tiếp qua sự biến động về nhu cầu thị trường, sự biến động về tỷ giá khiến cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị thua lỗ ảnh hưởng tới việc trả nợ ngân hàng của doanh nghiệp.

Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với mức lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Lợi tức của ngân hàng thu được bị giới hạn bởi lợi nhuận của doanh nghiệp sử dụng vốn vay ngân hàng. Do vậy, mức lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng không đủ khả năng trả nợ sẽ ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng, của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hoạt động tín dụng lúc này sẽ không còn là đòn bảy thúc đẩy SXKD phát triển và chất lượng tín dụng giảm sút.

Môi trường chính trị - xã hội:

Môi trường chính trị - xã hội ổn định sẽ giúp cho các khách hàng mạnh dạn đầu tư lâu dài cho hoạt động SXKD. Ngược lại, nếu môi trường chính trị - xã hội mà bất


ổn thì khách hàng sẽ không dám mạnh dạn đầu tư mà chỉ duy trì ở mức tái sản xuất giản đơn để bảo đảm an toàn vốn. Điều này sẽ ảnh hưởng tới quy mô các khoản tín dụng T&DH của ngân hàng, các món vay chủ yếu sẽ là ngắn hạn còn khoản tín dụng T&DH sẽ không có hoặc rất nhỏ vì sự không ổn định về chính trị - xã hội dẫn đến việc kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro, bất trắc hơn nên nó sẽ ảnh hưởng tới công tác thu nợ của ngân hàng.

Ngoài ra, tình hình chính trị - xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng T&DH. Bởi vì, hiện nay các quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng được mở rộng cho nên các loại hình doanh nghiệp đa quốc gia cũng ngày càng tăng cả về số lượng và quy mô hoạt động. Vì vậy, mọi biến động về kinh tế - xã hội ở nước ngoài đều có ảnh hưởng tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng T&DH.

Môi trường pháp lý:

Pháp lý là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập môi trường pháp lý cho mọi hoạt động SXKD tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế cao, là cơ sở để giải quyết khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ, đồng bộ, hợp lý sẽ không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong SXKD của các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng. Như vậy, pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng T&DH nói riêng.

Ngoài các yếu tố trên còn một số yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng chẳng hạn như môi trường tự nhiên. Bởi vì thiên tai là một yếu tố bất khả kháng. Khi thiên tai xảy ra thường gây thiệt hại lớn cho các ngành sản xuất, dịch vụ, gây ra các biến động xấu ngoài dự kiến trong mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng làm cho vốn của ngân hàng đầu tư vào các doanh nghiệp sẽ ít nhiều bị ảnh hưởng và làm giảm chất lượng tín dụng.


1.2.3.2 Các nhân tố chủ quan

Để đảm bảo các khoản tín dụng được sử dụng có hiệu quả, mang lại lợi ích cho ngân hàng góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội thì khách hàng có vai trò hết sức quan trọng:

Về phía khách hàng

Tiềm lực tài chính của khách hàng:

Tiềm lực tài chính của khách hàng thể hiện qua các chỉ tiêu như hệ số tự tài trợ, hệ số nợ, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời… Khả năng tài chính tốt là điều kiện để khách hàng có thể mở rộng SXKD, đầu tư mua sắm thiết bị tiên tiến, sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao, chiếm lĩnh thị trường và mang lại lợi nhuận lớn. Hoạt động kinh doanh tốt là điều kiện để doanh nghiệp trả nợ ngân hàng.

Chiến lược kinh doanh của khách hàng:

Trên cơ sở nhận định một cách khách quan, chính xác triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá khả năng phát triển sản xuất, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, cùng với những yếu tố thuận lợi, khó khăn của môi trường, doanh nghiệp sẽ quyết định kế hoạch chiến lược kinh doanh về sản xuất hay tiêu thụ cho đúng đắn.

Mức độ bảo đảm tín dụng

Nguyên tắc cho vay của NHTM luôn đề cập đến vấn đề TSĐB cho khoản vay đặc biệt là đối với các khoản tín dụng T&DH.

+ Xét về cầm cố, thế chấp: ngân hàng sẽ cho vay theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tài sản cầm cố, thế chấp. Loại trừ sự vi phạm đạo đức kinh doanh, nếu doanh nghiệp có đủ tài sản để thế chấp đảm bảo cho các khoản vay thì khoản cho vay này có thể được xem là ít rủi ro, từ đó chất lượng khoản cho vay này cũng được cải thiện.

+ Xét về bảo lãnh: Khi khách hàng hoạt động có hiệu quả, có uy tín, có mối quan hệ làm ăn lâu dài với các đối tác của mình có thể nhận được sự bảo lãnh để vay vốn ngân hàng. Nếu bên bảo lãnh thường xuyên đảm bảo được năng lực tài


chính và năng lực pháp lý tham gia vào hoạt động kinh doanh thì chất lượng cho

vay có thể được đảm bảo.

Tư cách, đạo đức của khách hàng

Tư cách đạo đức xét trên phương diện ý muốn hoàn trả khoản nợ vay, trong nhiều trường hợp người vay có ý muốn chiếm đoạt vốn, không hoàn trả nợ vay mặc dù có khả năng trả nợ, điều này đã gây ra những rủi ro không nhỏ cho ngân hàng. Nếu khách hàng trung thực, sử dụng vốn vay đúng mục đích thì rủi ro xảy ra đối với ngân hàng sẽ ít đi vì tính khả thi của dự án cũng đã được ngân hàng thẩm định một cách kỹ càng trước khi ra quyết định cho vay. Những việc sử dụng vốn vay sai mục đích của các doanh nghiệp đã góp phần không nhỏ vào tình hình hoạt động yếu kém của các TCTD.

Năng lực quản lý và trình độ của lãnh đạo khách hàng

Xem xét triển vọng kinh doanh của khách hàng cần xuất pháp từ yếu tố con người. Đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, đạo đức tốt sẽ có khả năng đưa ra chiến lược kinh doanh, cạnh tranh phù hợp giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển. Doanh nghiệp làm ăn tốt là điều kiện để họ bù đắp chi phí kinh doanh và trả nợ ngân hàng cả gốc và lãi đúng hạn, qua đó giảm rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng.

. Về phía ngân hàng

Chính sách tín dụng

Chính sách tín dụng của một ngân hàng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của ngân hàng đó. Bên cạnh việc phải phù hợp với đường lối phát triển của nhà nước thì chính sách tín dụng còn phải đảm bảo kết hợp hài hoà quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay và quyền lợi của ngân hàng. Chính sách tín dụng phải tạo ra sự công bằng, không những phải đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng mà còn phải đảm bảo đủ sức hấp dẫn đối với khách hàng. Một chính sách tín dụng đồng bộ, thống nhất và đầy đủ, đúng đắn sẽ xác định phương hướng đúng đắn cho cán bộ tín dụng. Ngược lại, một chính sách tín dụng không đầy đủ, đúng đắn và thống nhất


sẽ tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng tạo kẽ hở cho người sử dụng vốn không đem lại hiệu quả kinh tế, dẫn đến rủi ro tín dụng.

Chất lượng đội ngũ nhân sự

Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng là yêu cầu hàng đầu đối với mỗi ngân hàng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoạt động và khả năng tạo lợi nhuận của ngân hàng.

Tín dụng T&DH là một trong những nghiệp vụ tín dụng phức tạp nhất trong hoạt động của ngân hàng. Do đó, nó đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải nắm được đặc thù của mỗi ngành SXKD, am hiều về pháp luật có liên quan, nắm bắt được thông tin thị trường và điều quan trọng là năng lực thẩm định dự án tốt. Nhưng nếu trình độ hạn chế do không đào tạo bài bản, chuyên sâu hoặc thiếu kinh nghiệm nên không đánh giá được tính khả thi của dự án, không phân tích chính xác báo cáo tài chính, khả năng quản lý của khách hàng… điều này thường dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Bên cạnh đó, cán bộ ngân hàng đặc biệt cần phải có lương tâm và đạo đức nghề nghiệp, tránh gây ra những rủi ro đạo đức, làm tổn thất nghiêm trọng đến uy tín và hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Công tác thẩm định dự án đầu tư

Thẩm định DAĐT giúp ngân hàng xem xét một cách khách quan, toàn diện các khía cạnh tác động đến tính khả thi của dự án trước khi quyết định cho vay. Cũng từ việc thẩm định dự án, ngân hàng có thể tư vấn, góp ý cho chủ đầu tư để sửa đổi những điểm không hợp lý trong dự án để có thể thực hiện dự án hiệu quả hơn và ngân hàng có thể cho vay được. Thẩm định là một công việc đòi hỏi nhiều thời gian và kỹ thuật tính toán riêng. Nếu việc thẩm định không được tiến hành chặt chẽ thì khả năng xảy ra rủi ro đối với ngân hàng sẽ rất lớn và khoản vay chắc chắn sẽ có hiệu quả không cao.

Năng lực giám sát và xử lý tín dụng

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 05/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí