Chú Trọng Công Tác Dự Báo Và Phòng Ngừa Các Rủi Ro Trong Tín Dụng


hợp tác trong việc xử lý nợ thì tiến hành kê biên và phát mại tài sản thế chấp. Việc phát mại TSBĐ phải được thực hiện theo nguyên tắc và phương châm khách quan, minh bạch, nhưng không gây ồn ào, không tạo ra tâm lý bất ổn làm giảm giá hoặc khó bán TSBĐ.

+ Đối với tài sản thế chấp có giá trị lớn, khó phát mại thì chi nhánh có thể tự khai thác để thu hồi nợ bằng cách cho thuê có thời hạn, cho thuê mua, dùng làm tài sản góp vốn vào các liên doanh để khai thác chung với những doanh nghiệp tin cậy. Dùng áp lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật, chủ yếu là cảnh sát kinh tế, chính quyền địa phương, để ép các đối tượng có hành vi lừa đảo phải thu xếp nguồn trả nợ. Khởi kiện những khách hàng vay không có thiện chí trả nợ, có hành vi tẩu tán, cất giấu tài sản hoặc mưu toan tuyên bố phá sản để trốn nợ.

Để công tác quản lý nợ được hiệu quả hơn, ngân hàng cần thành lập bộ phận quản trị rủi ro chuyên trách để quản trị rủi ro tín dụng, thực hiện phân loại các khoản vay theo mức độ rủi ro, xây dựng hạn mức tín dụng đối với từng khách hàng, ngành kinh tế, khu vực và có những giải pháp xử lý đối với các khoản vay có vấn đề. Việc thành lập bộ phận chuyên trách này sẽ giảm tải khối lượng công việc cho các cán bộ tín dụng phụ trách vì hiện nay một cán bộ tín dụng phụ trách sẽ phải đảm nhiệm tất cả các công việc sau cho một khoản vay: từ việc tiếp nhận nhu cầu, hướng dẫn khách hàng làm hồ sơ vay, tìm kiếm thông tin, đánh giá thẩm định, đăng ký tài sản bảo đảm, giải ngân vốn vay, theo dõi giám sát khách hàng, tư vấn, hướng dẫn khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả cho đến việc thu hồi nợ gốc, lãi, việc phát mại tài sản, làm các thủ tục khởi kiện ra toà. Do vậy, việc lập ra bộ phận này góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.

Việc tăng cường kiểm tra, giám sát khách hàng sau khi vay vốn (quản lý nợ) và giải quyết tốt các khoản nợ quá hạn, nợ xấu là khâu không kém phần quan trọng trong việc quyết định chất lượng tín dụng(tốt hay xấu) của ngân hàng .


3.3.8 Chú trọng công tác dự báo và phòng ngừa các rủi ro trong tín dụng

T&DH


Công tác dự báo và phòng ngừa các rủi ro luôn giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kì một tổ chức sản xuất kinh doanh nào và đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng vậy. Như ta đã biết khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng (cho vay) ngân hàng luôn cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rủi ro tín dụng là không xảy ra. Tuy nhiên đó là việc xét trên tính nguyên tắc bởi vì không một nhà kinh doanh tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa khả năng phân tích tín dụng của nhiều cán bộ ngân hàng còn rất hạn chế. Do vậy trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro đối với hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi và chỉ có thể đề phòng, hạn chế. Ngân hàng phải luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn và trên cơ sở đó có các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Khi công tác này được thực hiện tốt thì rủi ro tín dụng sẽ được hạn chế và chất lượng tín dụng sẽ được nâng cao. Và đối với riêng hoạt động tín dụng trung, dài hạn thì công tác này phải được quan tâm nhiều hơn do các khoản tín dụng trung, dài hạn thường là có thời gian kéo dài do đó khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn và khi rủi ro xảy ra thì sẽ xảy ra tổn thất rất lớn cho ngân hàng (các khoản tín dụng trung, dài hạn thường có giá trị lớn) và không chỉ có vậy nếu rủi ro tín dụng xảy ra thì sẽ ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực, nhiều ngành và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của đất nước.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Qua theo dõi, giám sát tình hình của khách hàng, diễn biến của thị trường, CBTD phải luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn trong tín dụng T&DH để có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất luôn đe dọa các ngân hàng bởi mức độ rủi ro của các khoản vay T&DH lớn hơn đáng kể so với các khoản vay ngắn hạn. Chính vì vậy việc dự báo rủi ro tiềm ẩn càng đầy đủ, các biện pháp phòng ngừa càng cẩn trọng bao nhiêu thì hiệu quả tín dụng càng được đảm bảo bấy nhiêu. Từ đó chất lượng tín dụng cũng được nâng cao hơn.


Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh tỉnh Phú Thọ - 15

Việc dự báo phải được thực hiện liên tục và thường xuyên không chỉ trước khi đưa ra phán quyết mà cả suốt trong quá trình giải ngân vốn đến khi thu hết nợ gốc và lãi vay. Vì vậy, khi tính toán nguồn trả nợ, thời hạn trả nợ, CBTD cần tính toán các phương án lạc quan nhất, phương án bình thường, phương án xấu nhất có thể xảy ra trong các giả định về diễn biến thị trường. Để an toàn và phòng ngừa các rủi ro tiềm ẩn, có một cách thường dùng nhất là lấy phương án sản xuất xấu nhất để xem xét. Nếu phương án này vẫn trả được nợ và lãi vay ngân hàng trong giới hạn cho phép thì chắc chắn ngay từ khi phán quyết đã có thể phần nào yên tâm về khoản vay được duyệt.

Trong điều kiện hiện nay, trong tín dụng T&DH thì thế chấp và bảo lãnh cho việc vay vốn của các khách hàng (chủ yếu là các doanh nghiệp) đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngân hàng phải đảm bảo nguyên tắc và chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Nhà nước, áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo nhưng không tùy tiện. Tuyệt đối không coi thế chấp, bảo lãnh là “bùa hộ mệnh” trong cho vay, không thể coi là chiếc chìa khóa an toàn đặc biệt mà chỉ coi là chiếc chìa khóa an toàn cuối cùng trong việc đảm bảo an toàn tín dụng. Thực hiện việc cho vay thế chấp, bảo lãnh nói riêng và các hình thức tín dụng T&DH nói chung ngân hàng cần thực hiện đúng quy định cho vay phải dựa trên cơ sở dự án và năng lực thực sự của doanh nghiệp chứ không phải chỉ dựa vào duy nhất TSĐB.

Đồng thời, chi nhánh phải thường xuyên đánh giá, phân loại nợ, đánh giá các khoản nợ theo các khoản nợ có tổn thất khác nhau, định lượng rủi ro tín dụng có thể xảy ra, thực hiện việc trích lập dự phòng cụ thể đúng quy định để có những biện pháp bù đắp tổn thất khó có rủi ro xảy ra. Dựa trên tỷ lệ rủi ro chấp nhận và danh mục các khoản cho vay rủi ro. Chi nhánh chủ động xây dựng quỹ phòng dự phòng bù đắp rủi ro. Nhưng không được xem quỹ này có tác dụng giảm rủi ro mà là để chống đỡ cho vốn của chủ sở hữu khi tổn thất xảy ra.

3.3.9 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ

Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ luôn là một công tác quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm đảm bảo kinh doanh an toàn và hiệu quả. Sự


phát triển của hoạt động tín dụng trong đó có hoạt động tín dụng trung, dài hạn, đồng thời muốn nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng ngân hàng cũng ngày càng phải nâng cao chất lượng kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong ngân hàng. Nếu hoạt động tín dụng mà được mở rộng mà ngân hàng không quan tâm tới công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ thì có thể ngân hàng sẽ gặp phải những rủi ro trong hoạt động tín dụng, nợ quá hạn, nợ xấu sẽ tăng lên.

Trong những năm vừa qua công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ của ngân hàng luôn được thực hiện tốt và đã góp phần giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Trong những năm tới ngân hàng cần phát huy và tổ chức thực hiện tốt hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát của mình. Đối với hoạt động tín dụng để đạt hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ cần phải thực hiện đầy đủ, theo từng giai đoạn cụ thể, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay:

Kiểm tra trước khi cho vay: là quá trình xem xét trước khi cho vay xem có vi phạm những qui định của ngân hàng hay không, hay có điều gì là không hợp lý hay không, hồ sơ vay vốn của khách hàng có đủ tài liệu cần thiết chưa…

Kiểm tra trong khi cho vay: là quá trình xem xét quá trình thực hiện việc thẩm định và ra phán quyết tín dụng của các cán bộ tín dụng có điều gì sai sót hay không, quá trình thực hiện có theo đúng thủ tục, qui trình tín dụng hay không…

Kiểm tra sau khi cho vay: là quá trình xem xét tính hợp lệ, hợp pháp thông qua rà soát lại hồ sơ chứng từ của các hồ sơ cho vay đã được thực hiện, thực hiện kiểm tra quá trình trả nợ của khách hàng cho ngân hàng có đúng thời hạn hay không, qui trình xử lý của các cán bộ tín dụng đối với những khoản nợ quá hạn, nợ xấu ra sao…

Nếu thực hiện tốt những điều này, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ có những bước phát triển mới theo đúng phương châm của ngân hàng:


3.3.10 Nâng cao chất lượng thông tin

Hiện nay, ngân hàng chưa có được một cơ chế, một cách thức tối ưu để tìm kiếm thông tin. Những thông tin chủ yếu là do khách hàng cung cấp, và ngân hàng không tìm được cách nào để xác định liệu những thông tin đó là đúng hay sai. Do vấn đề thiếu thông tin nên việc thẩm định khách hàng gặp rất nhiều khó khăn, không đảm bảo tính đúng đắn và chính xác.

Vì vậy, vai trò của thông tin trong tín dụng nói chung và tín dụng T&DH nói riêng càng quan trọng. Trong nền kinh tế phát triển, vấn đề thông tin trở thành một trong những yếu tố chính trong cạnh tranh. Những ai nắm được càng nhiều thông tin chính xác, kịp thời thì càng có nhiều cơ hội thành công. NHTM hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ - một lĩnh vực dịch vụ mà thông tin là yếu tố cạnh tranh chủ yếu, nó quyết định sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Muốn thực hiện tốt công việc kinh doanh, ngân hàng phải tìm kiếm thông tin về khách hàng từ mọi nguồn có thể. Thông tin càng đầy đủ, chính xác, kịp thời thì các quyết định càng đúng đắn và có hiệu quả cao. Điều đó góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng.

Thông tin tín dụng có thể lấy từ các nguồn sau:

Thông tin trực tiếp từ khách hàng thông qua phỏng vấn, quan sát, tìm hiểu trực tiếp tại địa điểm SXKD. Nguồn thông tin này rất quan trọng, nó phản ánh ý thức của người vay cũng như năng lực sản xuất.

Thông tin từ trung tâm tín dụng (CIC) của NHNN. Đây là trung tâm đầu mối thu thập thông tin tín dụng liên quan tới khách hàng của các NHTM. Nhưng nguồn thông tin này vẫn còn hạn chế, mức độ cập nhật thông tin chưa cao.

Thông tin từ các bạn hàng của chủ đầu tư, các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành nghề, địa phương qua đó xác định được vị thế và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.

Nguồn thông tin từ các cơ quan quản lý kinh tế và các đầu mối thông tin

quan trọng như Tổng cục Thống kê, Bộ kế hoạch và đầu tư, ủy ban vật giá.


Trước nhiều nguồn thông tin như vậy, để có được thông tin chính xác phục vụ

hiệu quả cho công tác thẩm định tín dụng thì chi nhánh cần:

+ Chủ động tích cực trong việc khai thác thông tin thực sự cần thiết cho việc thẩm định DAĐT, tránh thu thập một cách tràn lan, dàn trải không đúng trọng tâm vấn đề.

+ Phải nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin. Các thông tin phải được kiểm tra tính chính xác kỹ càng trước khi phân tích. Muốn vậy thông tin phải được lấy từ nhiều nguồn khác nhau để so sánh đối chiếu. Nói chung thông tin có thể được lấy từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng để có thể thu thập lượng thông tin nhiều, nhanh và tốc độ cao, đánh giá được chính xác hơn thì Ngân hàng nên thành lập bộ phận tư vấn thông tin tín dụng để thu thập thông tin một cách thường xuyên hơn, thông tin được cập nhật hàng ngày ở tất cả các lĩnh vực. Sau đó mới tiến hành phân loại và lưu trữ, khi nào cần có thể có được ngay.

+ Bên cạnh việc thu thập thông tin thì cần phải phân tích, xử lý thông tin, có được các mảng thông tin về thị trường, giá cả, chính sách cần có định hướng phù hợp cho từng đối tượng để quá trình xử lý thông tin khi phân tích rủi ro đạt hiệu quả cao.

+ Thiết lập và duy trì mối quan hệ chặt chẽ, thường xuyên với chính quyền các cơ quan chức năng, các hiệp hội ngành nghề, thị trường liên quan.

Vậy ngân hàng cần cập nhật những thông tin về sự đổi mới công nghệ ngân hàng trong hệ thống ngân hàng cả trong và ngoài nước để có sự tiếp thu, kế thừa và thích ứng một cách hợp lý và đem lại hiệu quả cao.

3.3.11 Một số giải pháp hỗ trợ khác

Tham gia bảo hiểm tín dụng

Đây là một giải pháp mang tính nguyên tắc cần phải có trong kinh doanh tín dụng. Biện pháp này được áp dụng phổ biến ở các nước phát triển, nhưng ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay hoạt động bảo hiểm tín dụng chưa được áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đề cập tới một số hình thức bảo hiểm tín dụng:


- Khách hàng vay vốn tín dụng, tham gia mua bảo hiểm ngành nghề mà họ kinh doanh hoặc mua bảo hiểm của tài sản này. Vì vậy, những khoản tín dụng trong trường hợp này coi như cùng được bảo hiểm một cách gián tiếp. Phương pháp này không phát sinh thao tác nghiệp vụ cho ngân hàng. Để sử dụng tốt hình thức này, về phía ngân hàng cần có những chính sách ưu tiên về vốn cho vay, lãi suất đối với các doanh nghiệp, cá nhân mua bảo hiểm.

- Để đảm bảo khi rủi ro xảy ra vẫn có nguồn để bù đắp cho những khoản tiền gửi huy động ngân hàng trực tiếp bảo hiểm tiền gửi của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp, ở nước ta hiện nay, chưa có tổ chức nào thực hiện nghiêp vụ bảo hiểm tiền gửi nên câu hỏi đặt ra là ngân hàng sẽ mua bảo hiểm ở đâu? Để giải quyết vấn đề này, giải pháp nêu ra là thành lập một tổ chức bảo hiểm tiền gửi thuộc Chính phủ. Bảo hiểm tiền gửi cũng là một biện pháp tích cực hỗ trợ phòng chống rủi ro tín dụng, bảo đảm uy tín và sự bền vững của ngân hàng.

Triển khai chương trình đổi mới công nghệ

Công nghệ là phương tiện và là chìa khóa nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và quản lý hệ thống. Để triển khai các đề án trong chương trình đổi mới công nghệ cần phải có sự chỉ đạo cụ thể, tuyển và đào tạo những cán bộ có chuyên môn thực hiện. Công nghệ tốt, trang thiết bị hiện đại giúp tăng nhanh tốc độ liên lạc trong nội bộ, vừa làm tăng tính kịp thời của thông tin, rút ngắn thời gian thẩm định mà vẫn đảm bảo ra quyết định đúng đắn, tăng tính cạnh tranh cho chi nhánh.

3.4 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Hiệu quả tín dụng thực chất là phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cả chủ quan và khách quan. Yếu tố chủ quan thuộc về bản thân ngân hàng nhưng yếu tố khách quan lại thuộc về khách hàng, môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và những chính sách của Đảng và Nhà nước. Do vậy để thực hiện có hiệu quả các biện pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại chi nhánh thì không những phải có sự nỗ lực của chi nhánh mà cần phải có sự phối hợp của các ban ngành. Có một môi trường pháp lý vững chắc, môi trường kinh doanh thuận lợi thì tất nhiên hoạt động tín dụng sẽ có hiệu quả hơn. Qua tình hình nghiên cứu thực tiễn, người viết xin đề xuất một số ý kiến sau:


3.4.1 Kiến nghị đối với Nhà nước và Chính phủ

Nhà nước cần có các giải pháp đồng bộ để ổn định thị trường tiền tệ

Chính sách tiền tệ giai đoạn 2012-2015 vẫn phải hướng vào mục tiêu kiềm chế lạm phát, mà giảm tình trạng “đô la hóa” và “vàng hóa” nền kinh tế và ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng tiền, đồng thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển với tốc độ cao và bền vững. Chính sách tiền tệ phải được điều hành bởi các công cụ, chính sách cụ thể về tín dụng đối với nền kinh tế, về quản lý ngoại hối và chính sách đối với ngân sách thay cho cách điều hành thông qua các chỉ tiêu kế hoạch như trước đây. Quan điểm trong xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn này là phải điều hòa được các quan hệ vốn có mâu thuẫn, đó là:

+ Giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và mục tiêu tăng trưởng kinh tế.

+ Giữa lợi ích chung kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế với lợi ích của

các NHTM và các TCTD.

+ Giữa lợi ích người gửi tiền, nhà kinh doanh tiền tệ và người đi vay.

Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động của NHTM

Nhà nước cần xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, nhằm tạo môi trường bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo sân chơi thực sự thông thoáng cho các doanh nghiệp. Đặc biệt, hệ thống pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở phù hợp với thực tiễn sản xuất, phải ổn định, minh bạch và thực thi nghiêm chỉnh để tạo môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, để các doanh nghiệp trong và ngoài nước yên tâm và mạnh dạn đầu tư, nâng cao hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng T&DH của ngân hàng. Về mặt pháp lý, trong thời gian qua vướng mắc lớn nhất trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các DNNQD là vấn đề tài sản thế chấp. Theo quy định của Chính phủ thì chỉ những tài sản nào có đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký quyền sử dụng thì mới đủ điều kiện làm tài sản thế chấp nhưng trong thực tế việc tổ chức đăng ký quyền sở hữu tài sản của các doanh nghiệp còn rất nhiều khó khăn. Cũng liên quan đến tài sản thế chấp, việc sử lý tài sản thế chấp khi có rủi ro xảy ra cũng là một vấn đề nan giải đối

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 05/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí