Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - chi nhánh bắc Hà Nội - 7

hay phục hồi, cơ hội phục hồi của các ngành là những nhân tố tác động mạnh tới các DNVVN trong lĩnh vực đó.

3.2.7 Tăng cường công tác Marketing

Trên thực tế, trong mấy năm gần đây, CN không có nhiều quan tâm trong hoạt động marketing, khách hàng đến với CN chủ yếu là những khách hàng truyền thống hoặc là những khách hàng có công ty gần địa điểm giao dịch của CN. Vì vậy, để thu hút nhiều khách hàng đến với ngân hàng, CN cần chú ý hơn tới hoạt động marketing của CN.

Hoạt động marketing hiệu quả sẽ giúp cho nhiều doanh nghiệp biết tới Ngân hàng và nâng cao tính cạnh tranh của Ngân hàng so với các NHTM khác. Các khách hàng là những DNVVN thường chưa thật sự am hiểu về hoạt động cho vay cũng như quy trình cho vay vốn của ngân hàng nên thường ngần ngại sợ mất nhiều thời gian cho thủ tục vay ngân hàng. Vì vậy, để phát triển cho vay DNVVN Ngân hàng cần tăng cường quảng bá, giới thiệu mình với khách hàng.

Ngân hàng cần thực hiện đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ Ngân hàng nói chung và các sản phẩm, dịch vụ cho DNVVN nói riêng. Ngân hàng cũng cần tìm hiểu nhu cầu thị trường, thái độ của khách hàng khi sử dụng dịch vụ Ngân hàng từ đó cải tiến sản phẩm và khai thác tối đa nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, Vietinbank cũng cần nghiên cứu những sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao trên thị trường và đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.

Vietinbank cũng nên tổ chức những buổi hội thảo để tìm hiểu nhu cầu cũng như tình hình của các DNVVN, từ đó tạo cơ hội để các doanh nghiệp này tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn Ngân hàng. Cũng thông qua các buổi hội thảo, Ngân hàng chủ động lựa chọn và tìm kiếm khách hàng mới. Việc chủ động tìm kiếm khách hàng không chỉ giúp Ngân hàng mở rộng cho vay mà còn tạo cơ hội cho Ngân hàng có thể đến được với những khách hàng tốt, do đó nâng cao được chất lượng các khoản cho vay.

3.2.8 Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng

Trong bất kỳ mọi lĩnh vực, đặc biệt là ngân hàng tài chính, yếu tố con người là quan trọng nhất. Trong hoạt động tín dụng, cán bộ tín dụng là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, ra quyết định cấp tín dụng và thu nợ đối với khách hàng. Do đó cán bộ tín dụng phải là người am hiểu khách hàng, nắm bắt tình hình tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng kể cả hiện tại cũng như sau này, xác định tiềm năng phát triển và dự báo được những biến động trong tương lai. Đồng thời những biến động về kinh tế cũng như sự thay đổi các chính sách của chính phủ cũng tác động lớn đến hoạt động tín dụng, nên cán bộ tín dụng cũng cần am hiểu nhiều lĩnh vực khác chứ không chỉ riêng về ngân hàng. CN Bắc Hà Nội là một trog số ít CN của toàn hệ thống

64


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.

Vietinbank có chất lượng đội ngũ nhân viên tận tình, năng động, linh hoạt và khá nghiêm chỉnh trong quá trình làm việc. Tuy nhiên, CN vẫn còn tồn tại những CBTD có tư cách đạo đức kém và các CBTD mới làm vẫn còn có nhiều thiếu sót. Vì vậy, Chi nhánh cần có chính sách đào tạo cán bộ thích hợp để nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng. Cụ thể:

- Tăng cường tuyển chọn những cán bộ tín dụng có trình độ, nghiệp vụ vững vàng, có tư cách đạo đức và khả năng giao tiếp tốt.

Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - chi nhánh bắc Hà Nội - 7

- Chi nhánh thường xuyên bồi dưỡng cán bộ để nắm bắt kịp thời với những thay đổi của luật, công nghệ… Đồng thời cần trang bị cho đội ngũ cán bộ tín dụng những hiểu biết sâu rộng trên mọi lĩnh vực kinh tế để có thể mở rộng hoạt động cho vay tới mọi ngành nghề.

- Sau khi đào tạo, Chi nhánh cần tạo điều kiện để cán bộ tín dụng có thể vận dụng những kiến thức đó vào công việc để khai thác có hiệu quả công nghệ kỹ thuật mới.

- Tổ chức nhiều chương trình đào tạo hợp tác với các ngân hàng trong nước và các tổ chức quốc tế để giúp cán bộ có thể học hỏi được thêm nhiều kinh nghiệm trong việc thẩm định và quản lý công tác cho vay.

- Chi nhánh cần động viên tinh thần làm việc của cán bộ tín dụng thông qua các hình thức tăng lương, thưởng, tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể thao, giải trí. Đối với các cán bộ tín dụng làm việc hăng hái, nhiệt tình, đạt nhiều thành tích cần có chế độ khen thưởng. Đồng thời có biện pháp kỷ luật những cán bộ thoái hoá biến chất, có hành vi tiêu cực gây tổn hại tới uy tín và tài sản của ngân hàng.

- Xử lý nghiêm túc các cán bộ vi phạm quy chế: Bên cạnh các đãi ngộ CN cần đề ra những hình thức xử lý thích đáng nhằm ngăn chặn CBTD ngay từ trong suy nghĩ. Khi phát hiện sai phạm cần xác định rõ sai phạm thuộc về ai, mức độ chịu trách nhiệm của những người liên quan, ràng buộc trách nhiệm của những người liên quan để cùng nhắc nhở và thực hiện theo quy định.

3.2.9 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát

Công tác kiểm tra, kiểm soát là công tác quan trọng để xác định xem khách hàn có đủ khả năng trả nợ đúng hạn, có sử dụng tiền vay đúng mục đích. CN đã có những công tác kiểm tra theo đúng quy trình nhưng chất lượng của các cuộc kiểm tra còn thấp, do các CBTD chỉ nhận thông tin từ các khách hàng mà chưa có những cuộc kiểm tra thực tế tới các xưởng, công ty của khách hàng. Vì vậy, Ngân hàng cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát hơn nữa. Bởi vì hiện nay, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, các phân tích tài chính doanh nghiệp cho thấy một bộ phận lớn các DNVVN đều ở mức thấp hơn tiêu chuẩn cho vay. Vì vậy,

Ngân hàng phải thường xuyên theo dõi quá trình sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn 65

vay của doanh nghiệp để hạn chế rủi ro mất vốn. Đồng thời, việc kiểm tra, kiểm soát thường xuyên sẽ giúp cán bộ ngân hàng nắm được nguồn thu của khách hàng, nắm được biến động bất thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng để từ đó có biện pháp xử lý khách quan và chính xác. Ngân hàng cũng phải thường xuyên đánh giá lại các khoản cho vay, phát hiện kịp thời các khoản cho vay cần xử lý để đưa ra những biện pháp đối phó thích hợp.

3.3 Một số kiến nghị

3.3.1 Kiến nghị với Chính phủ và Nhà nước

-Chính phủ cần ban hành hệ thống các văn bản pháp lý đầy đủ, đồng bộ. Hiện nay trong hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng và các lĩnh vực có liên quan như các quy định về đất đai, quy định về bảo đảm tiền vay… còn có nhiều kẽ hở, thiếu sót. Vì vậy, việc hoàn thiện các hệ thống văn bản pháp luật là điều cần thiết. Từ đó, hoạt động cho vay được thực hiện một cách bài bản, rõ ràng, đảm bảo an toàn khách quan hơn đồng thời sẽ giảm thiểu rủi ro do hoạt động cho vay NHTM đem lại.

-Cần tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp. Nhà nước cần có biện pháp đối với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, yếu kém để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đối với những doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực ngành nghề thì Nhà nước có thể có nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.

- Cần có biện pháp kinh tế (như phạt hành chính, ...) buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng Pháp lệnh kế toán thống kê, thực hiện tốt công tác duyệt quyết toán và kiểm tra theo chế độ quy định để đảm bảo tính pháp lý và nguồn số liệu cung cấp cho Ngân hàng.

- Mặc dù đã thành lập các quỹ để hỗ trợ vốn cho các DNVVN như Quỹ hỗ trợ DNVVN, quỹ đầu tư phát triển địa phương,... tuy nhiên, chất lượng hoạt động của các quỹ còn kém do thủ tục rườm rà, nhiều giai đoạn. Vì vậy, Chính phủ cần có những biện pháp thích hợp để phát huy tối đa hiệu quả của các quỹ này, xây dựng và giảm thiểu các thủ tục rườm rà, không cần thiết, hỗ trợ đúng và kịp thời cho các DN thật sự cần vốn nhưng không có đủ điều kiện vay vốn ngân hàng.

-Nâng cao chất lượng quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN: tình trạng chung là các DNVVN là vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý hạn chế, có dự án kinh doanh khả thi nhưng không đủ điều kiện để tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng mà phải vay vốn từ các nguồn phi chính thức với lãi suất cao. Vì vậy, mặc dù Nhà nước đã thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN để hỗ trợ DNVVN tiếp cận vốn tín dụng, tuy nhiên chất lượng của các quỹ vẫn còn yếu và bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót. Vì

66


vậy, để nâng cao chất lượng cũng như để phát huy tốt hiệu quả của quỹ bảo lãnh tín dụng, nhà nước có thể tham khảo mô hình hoạt động sau:

Mô hình hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng: trong giai đoạn đầu, nước ta cần xây dựng quỹ bảo lãnh tín dụng dưới hình thái tổ chức tài chính nhà nước. Việc xây dựng quỹ bảo lãnh tín dụng phải phù hợp với định hướng chiến lược phát triển kinh tế nói chung và đặc điểm phát triển DNVVN nói riêng. Hệ thống quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN cần được hình thành theo mô hình quỹ bảo lãnh tín dụng trung ương và một số CN phân theo vùng lãnh thổ gắn liền với khu vực tập trung các DNVVN. Quỹ nên là các tổ chức trung gian giữa nhà nước và DN, là một định chế tài chính phi lợi nhuận nằm trong hệ thống giám sát của ngân hàng Nhà nước VN.

Đối tượng phục vụ của quỹ bảo lãnh tín dụng: đó là các DNVVN hoạt động trong tất cả các lĩnh vực. Những DN này có dự án khả thi, có đủ điều kiện vay vốn các NHTM nhưng chưa có đủ tài sản thế chấp, cầm cố. Qũy bảo lãnh cho các DN mới thành lập cũng như đang hoạt động kinh doanh, quỹ sử dụng nguồn vốn của mình để bảo lãnh các món vay ngắn hạn, trung và dài hạn.

Nguyên tắc và mức bảo lãnh: quỹ chỉ bảo lãnh cho các dự án khả thi đã được tổ chức tín dụng thẩm định là có hiệu quả nhưng chủ đầu tư không có tài sản thế chấp, cấp bảo lãnh thực hiện theo cơ chế cộng đồng trách nhiệm và phân chia rủi ro. Điều đó có nghĩa là trong quan hệ vay vốn, DN phải có tối thiểu 20% vốn tự có cho dự án. Quỹ chỉ bảo lãnh cho 80% còn lại. Khi DN không trả được nợ cho ngân hàng thì quỹ thanh toán 70% số tiền cam kết bảo lãnh còn ngân hàng chịu rủi ro 30%.

Điều kiện nhận được bảo lãnh: DNVVN thành lập và hoạt động theo pháp luật VN, có dự án khả thi, tình hình tài chính lành mạnh không có nợ đọng về thuế, không có nợ quá hạn tại các TCTD và các tổ chức kinh tế khác. DN phải nộp phí bảo lãnh tính trên số dư nợ thực tế của khoản vay được bảo lãnh. Mức bảo lãnh cho một khách hàng không quá 500 triệu đồng đối với quỹ bỏa lãnh trung ương và không quá 300 triệu đồng với quỹ bảo lãnh địa phương.

3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước

Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý hành chính, ban hành các văn bản, quy chế, chính sách chỉ đạo và hướng dẫn hoạt động của các ngân hàng thương mại. Để tạo môi trường cho vay thông thoáng đối với các DNVVN, Ngân hàng nhà nước cần ban hành quy định rõ ràng thống nhất về bảo đảm tiền vay, quy chế cho vay phù hợp với thành phần kinh tế này. Trong điều kiện ra nhập WTO, DNVVN có nhiều cơ hội để phát triển. Tuy nhiên, với năng lực tài chính nhỏ, DNVVN khó có thể vượt qua các điều kiện vay vốn của ngân hàng để tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Do đó, Ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu cơ chế, đơn giản hoá thủ tục cho vay đối với các DNVVN


67

đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để bộ phận doanh nghiệp này có thể sử dụng được vốn tín dụng ngân hàng.

Để hỗ trợ cho các NHTM trong việc thu thập tìm kiếm thông tin, Ngân hàng nhà nước cần hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng, nâng cao hiệu quả của trung tâm thông tin tín dụng CIC từ khâu nhập dữ liệu đến việc lưu trữ xử lý và cung cấp số liệu để đảm bảo thông tin được chính xác tin cậy và kịp thời. Nhờ đó, quy trình thẩm định khách hàng của NHTM được thực hiện dễ dàng, hiệu quả, góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng.

Nâng cao chất lượng thanh tra, giám sát đối với các NHTM để bảo đảm hoạt động tín dụng diễn ra lành mạnh. Ngân hàng Nhà nước cần kiên quyết xử lý các sai phạm của NHTM để nâng cao chất lượng tín dụng, đồng thời thường xuyên cập nhật thông tin để hỗ trợ xử lý kịp thời, tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong hoạt động tín dụng của NHTM.

Ngân hàng Nhà nước cần thực thi có hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ để đảm bảo vận hành an toàn. Thực thi chính sách lãi suất và tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu, phù hợp với cơ chế thị trường và sức mua thực tế của đồng tiền. Môi trường kinh tế vĩ mô nói chung và hệ thống các chính sách tiền tệ nói riêng có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả kinh doanh của các NHTM. Ngân hàng Nhà nước với tư cách là cơ quan ban hành và thực thi chính sách tiền tệ cần có sự chủ động hơn nữa trong việc xây dựng và hoạch định chính sách tiền tệ để các Ngân hàng thương mại có cơ sở xây dựng chính sách phát triển của mình phù hợp với chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn.

3.3.3 Kiến nghị với ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam

3.3.3.1 Đối với Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam

- Ban hành chế độ nghiệp vụ cụ thể

Hiện nay, NHCT đã có chế độ nghiệp vụ khá cụ thể và phù hợp với tình hình kinh doah của toàn hệ thông ngân hàng. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động, NHCT Việt Nam cần phải tiếp tục hoàn chỉnh và ban hành các chế độ nghiệp vụ cụ thể, đảm bảo ngắn gọn, chuẩn xác, định rõ được trách nhiệm của từng cán bộ tín dụng đến trưởng, phó phòng kinh doanh và giám đốc sao cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay và chế độ DNVVN quy định. Kịp thời đưa ra những văn bản hướng dẫn chi tiết các quyết định của NHNN áp dụng trong toàn hệ thống NHCT.

- Thường xuyên kiểm tra hoạt động của các đơn vị thành viên trong hệ thống NHTC Việt Nam

Hoạt động của NHCT Việt Nam mang tính thống nhất và tập trung cao độ trong toàn hệ thống, vì vậy nếu một đơn vị thành viên trong hệ thống hoạt động kinh doanh không có hiệu quả sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chung của toàn hệ

68


thống. Do đó, NHCT Việt Nam phải thường xuyên kiểm tra, kiểm soát các mặt nghiệp vụ hoạt động kinh doanh của các đơn vị thành viên trong hệ thống nói chung và Chi nhánh NHCT Bắc Hà Nội nói riêng.

Trong công tác thanh tra kiểm soát cần phải có đội ngũ cán bộ là người am hiểu sâu rộng nghiệp vụ ngân hàng, có phẩm chất đạo đức tốt và phải được đào tạo thêm các kiến thức bổ trợ khác như nghiệp vụ thanh tra, pháp luật, quản lý nhà nước,…để kịp thời uốn nắn những sai sót, đưa hoạt động của các đơn vị thành viên được thống nhất theo đúng qui trình nghiệp vụ, thể chế của NHCT cũng như của Ngành, đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các Chi nhánh trong toàn hệ thống.

- Chú trọng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ ngân hàng.

Hiện nay, NHCT Việt Nam đã có trung tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ nên để giải quyết những trình độ bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ mới trong nền kinh tế thị trường cần phải:

Tăng cường mở thêm các lớp học tập, bồi dưỡng nghiệp vụ trong ngành cũng như ngoài ngành với đội ngũ giảng viên có trình độ giỏi và kinh nghiệm trong giảng dạy.

Thường xuyên tổ chức kiểm tra tay nghề về các mặt nghiệp vụ nhất là nghiệp vụ tín dụng với cán bộ làm công tác tín dụng (đội ngũ quyết định sự thành bại trong kinh doanh của ngân hàng).

3.3.3.2 Đối với Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam - Bắc Hà Nội

Thực tế hiện nay, CN đã thực hiện khá tốt các quy định cũng như quy tắc chung trong hoạt động cho vay đối với DNVVN, tuy nhiên, CN cần nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động cho vay bằng việc thực hiện tốt các giải pháp riêng của CN. Cụ thể là:

- Thứ nhất, Ban lãnh đạo cần phải xây dựng được chiến lược kinh doanh, am hiểu tình hình kinh tế thị trường cũng như môi trường chung trong kinh doanh để quyết định cho vay đầu tư đúng đắn, nhất là đối với DNVVN.

- Thứ hai, sau khi có chiến lược kinh doanh rồi, yêu cầu tổ chức thực hiện tốt các công việc như thẩm định khách hàng vay vốn một cách toàn diện, thực hiện lựa chọn, sàng lọc khách hàng theo ngành nghề kinh doanh, đảm bảo đối tượng khách hàng – DNVVN có dự án phương án có tính khả thi và phải xác định được mức độ cho vay đầu tư phương dự án thế nào, hiệu quả mang lại ra sao, thực hiện kiểm tra giám sát vốn vay đúng quy định định kỳ, thường xuyên, đảm bảo vốn cho vay đúng đối tượng, kiểm soát được vốn vay nhằm thu hồi nợ vay đúng hạn. Trong kinh doanh ngân hàng, việc không để phát sinh nợ quá hạn, nợ xấu là rất khó. Điều này đỏi hỏi người lãnh đạo phải sâu sát, nắm bắt được các khách hàng để có các giải pháp đúng đắn khi có vấn đề xảy ra. Những trường hợp khách hàng có khó khăn, ngân hàng phải biết cách tư vấn tìm ra hướng giải quyết nhằm đảm bảo quyền lợi của khách hàng và lợi ích của ngân

69

hàng. Trong từng trường hợp cụ thể, CN cần có các giải pháp và những bước đi thích hợp để thu hồi nợ. Khi giải quyết nợ quá hạn và nợ xấu CBTD phải dựa trên trên tắc: Giải quyết hài hoà, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng thoát khỏi khó khăn và tiếp tục trả nợ ngân hàng, điều này là hết sức quan trọng.

3.3.4 Kiến nghị đối với các DNVVN

Để nâng cao chất lượng cho vay đòi hỏi không chỉ cần phải có sự nỗ lực từ phía nhà nước và ngân hàng mà còn cần phải có sự nỗ lực không nhỏ từ các DNVVN - nhân tố trực tiếp mang lại rủi ro cũng như lợi nhuận cho ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả vay vốn cũng như chất lượng cho vay thì các DNVVN nên:

-Nâng cao trình độ hiểu biết về hoạt động tín dụng Ngân hàng, quy trình, thủ tục vay vốn Ngân hàng: Thực tế nhiều trường hợp dự án, phương án kinh doanh của khách hàng hiệu quả nhưng do khách hàng không có khả năng lập dự án dẫn đến khách hàng mất nhiều thời gian giải trình, lỡ cơ hội kinh doanh của khách hàng. Vì vậy, các DNVVN cần hiểu và nắm được các quy định của Ngân hàng về điều kiện vay vốn, các thủ tục vay vốn để có thể rút ngắn được thời gian hoàn thiện hồ sơ vay vốn. Doanh nghiệp cũng cần hiểu phương pháp lập dự án, phương án kinh doanh để có thể trình bày, giải trình lô gíc về các phương án, dự án khả thi của doanh nghiệp.

-Chấp hành nghiêm túc các quy định kế toán, kiểm toán: Hiện nay, việc thực hiện công tác kế toán chưa được các doanh nghiệp vừa và nhỏ quan tâm đúng mức. Báo cáo tài chính của một số doanh nghiệp còn sơ sài, hạch toán không đúng hoặc không đầy đủ, thiếu minh bạch.

-Thực hiện các điều kiện về đảm bảo tiền vay: Một trong những điều kiện mà doanh nghiệp vừa và nhỏ thường không đáp ứng được khi vay vốn ngân hàng, đó là điều kiện đảm bảo tiền vay. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị các hồ sơ, các bước thực hiện bảo đảm tiền vay trước khi đến vay vốn ngân hàng. Ngân hàng cũng cần có hướng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp trong việc bổ sung, hoàn thiện các bước để thực hiện bảo đảm tiền vay đa dạng kết hợp các hình thức bảo đảm tiền vay.

-Nâng cao năng lực cạnh tranh: Các DNVVN không nên quá lệ thuộc vào lợi thế về chi phí lao động thấp bởi yếu tố này thiếu tính bền vững đồng thời doanh nghiệp phải chịu thiệt thòi. Ngay sau khi xâm nhập thị trường, các doanh nghiệp cần nhanh chóng xây dựng lợi thế cạnh tranh bằng sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Để đạt được lợi thế này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có thông tin thị trường, có khả năng nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới trang thiết bị và công nghệ hiện đại, xây dựng lực lượng lao động có chuyên môn và lành nghề; có như vậy thì hoạt động sản xuất kinh doanh của DN mới đạt hiệu quả cao. Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh xuất khẩu, tập trung vào phát triển công nghiệp nhẹ.

70


KẾT LUẬN

Sau khi Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế nước ta đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. DNVVN sẽ có điều kiện mở rộng và phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, DNVVN còn gặp không ít khó khăn, nhất là khó khăn về vốn để đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động , cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đây là cơ hội cho các ngân hàng thương mại phát triển hoạt động cho vay của mình với bộ phận doanh nghiệp này.

Trong thời gian qua, Vietinbank – Chi nhánh Bắc Hà Nội đã xác định phương hướng đúng đắn và sự cố gắng không ngừng của tập thể lãnh đạo và cán bộ nhân viên, Chi nhánh NHCT Bắc Hà Nội đã đạt được nhiều kết quả tốt trong việc nâng cao chất lượng cho vay. Tuy nhiên bên cạnh đó chất lượng cho vay đối với DNVVN của Chi nhánh cũng còn một số hạn chế cần khắc phục. Để nâng cao hiệu quả và chất lượng cho vay DNVVN đòi hỏi toàn thể đội ngũ cán bộ nhân viên và ban lãnh đạo phải chủ động khắc phục khó khăn, không ngừng trau dồi nghiệp vụ và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp.

Trong phạm vi kiến thức cũng như thời gian còn hạn chế, bài viết này mới chỉ đề cập tới một số vấn đề cơ bản nhằm đạt mục tiêu nghiên cứu và không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo cũng như những ý kiến góp ý từ thầy cô để khóa luận hoàn chỉnh hơn.

Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2013 Sinh viên

Đỗ Thị Minh Thùy

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2011, 2012.

2. Báo cáo tổng hợp dư nợ của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2011, 2012.

3. PGS.TS Mai Văn Bạn (năm 2011), Giáo trình Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB tài chính, trang 40.

4. Jean Pierre Cling, Mireille Razatindrakoto, (2009), “World Bank”[ Ngân hàng thế giới ], Xuất bản lần 1, Nhà xuất bản Tri thức.

5. TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, (2010), “Vai trò của công nghệ ngân hàng trong chiến lược phát triển Ngân hàng giai đoạn 2010-2020”, Tạp chí Ngân hàng, tháng 5

6. Website www.sbv.gov.vn, quyết định số 18/2007 QĐ-NHNN ngày 25/4/2007, http://www.sbv.gov.vn/portal/faces/vi/vim/vipages_trangchu/vbqppl/vbnhnnbanhanh? adf.ctrl-state=qy2jt0g6b_4&_afrLoop=2493166900141600

7. Website Vietinbank, Chương trình cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ, www.vietinabank.vn, http://www.vietinbank.vn/web/home/vn/doanhnghiep/loan/index.html

8.Website: www.cafef.vn, http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/can-trong-no-xau- lap-lai-201310251252143972ca34.chn

9. Website:www.hcmshare.com, http://hcmshare.com/tapchicnnh/index.php?language=vi&nv=news&op=Tap-chi-moi-xuat-ban/Tap-chi-Cong-nghe-Ngan-hang-so-91-thang-10-2013-89

10. Website:www.vanbanchinhphu.vn, http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&m ode=view&org_group_id=2&type_group_id=0&category_id=0


..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/04/2022