Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - chi nhánh bắc Hà Nội - 2

-DNVVN giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế: Giúp ổn định nền kinh tế, ổn định các vấn đề vĩ mô như: thất nghiệp, lạm phát, đóng góp vào GDP, tăng trưởng kinh tế,... DNVVN làm cho nền kinh tế năng động hơn, do có quy mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động DNVVN thường thực hiện chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết của một sản phẩm hoàn chỉnh, góp phần tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng, tạo thêm nhiều hàng hóa, dịch vụ, góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước.

-Góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, theo khu vực và thành phần kinh tế, để có thể tạo ra được một cơ cấu kinh tế có tính đổi mới hơn và thích ứng cao hơn. Do DNVVN hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nhau, khi trao đổi buôn bán sẽ tạo ra được sự chuyển dịch về vốn, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Hoạt động của DNVVN giúp làm tăng tỷ trọng đóng góp của các ngành thương mại, dịch vụ, chuyển dịch nền kinh tế theo hướng công nghiệp phát triển. DNVVN đóng góp đáng kể vào việc duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, sản xuất ra được các sản phẩm mang đậm bản sắc dân tộc.

-Đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ. DNVVN có mặt ở nhiều địa phương, là nơi sẵn có các nguồn nguyên liệu như: nông sản, dược liệu, lợi thế về các ngành nghề thủ công truyền thống... đã tạo được số lượng hàng hóa lớn, đa dạng, nhiều chủng loại, không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu được. DNVVN vừa trực tiếp thu mua nguyên liệu, sản xuất, vừa liên kết với các DN khác, tạo nên vòng lưu thông hàng hóa khép kín, vừa có đầu vào sản xuất, vừa có đầu ra tiêu thụ.

-Phát triển gắn bó chặt chẽ với các DN có quy mô hoạt động lớn, tạo mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ lẫn nhau. Nền kinh tế của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới hiện nay, sự cạnh tranh giữa các DN đang chuyển dần từ cạnh tranh giá cả sang cạnh tranh về công nghệ và chất lượng. Những loại hàng hóa có chất lượng cao, mang tính sáng tạo, phong phú, đa dạng về kiểu dáng sẽ chiếm ưu thế trên thị trường. Theo đó, sự phát triển của hoạt động chuyên môn hóa và hợp tác hóa đã cho thấy việc áp dụng mô hình sản xuất kiểu vệ tinh là phù hợp với điều kiện và khả năng phát triển của mỗi nước. Trong nền kinh tế các DNVVN sẽ là vệ tinh của các DN lớn để có thể gắn bó chặt chẽ và thúc đẩy sự phát triển của từng loại hình DN này. Do vậy, trong một nền kinh tế hiện đại, DNVVN không những không thể hòa tan trong các tập đoàn lớn mà khả năng phát triển, hợp tác để mở rộng ngày càng được củng cố.

-DNVVN giúp khai thác tiềm năng phong phú về vốn trong dân cư để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Việc ngày càng xuất hiện nhiều DNVVN cùng với khả năng hoạt động tốt, lành mạnh đã tạo dần nếp suy nghĩ cho người dân nên đầu tư vào sản xuất


4


kinh doanh thay vì trước đây tiền nhàn rỗi chỉ biết giữ và gửi tiết kiệm hoặc mua vàng cất trữ. DNVVN là trụ cột của nền kinh tế địa phương, do các DN lớn thường đặt tại các trung tâm kinh tế, còn DNVVN có mặt ở hầu hết các địa bàn, giúp giải quyết nhanh chóng việc làm cho lao động địa phương, yếu tố sản xuất tại cơ sở.

-Khi nền kinh tế gặp khó khăn, khủng hoảng, DNVVN có vai trò kích cầu nền kinh tế một cách mạnh mẽ (vì các DN này thường ít bị ảnh hưởng mạnh khi nền kinh tế có biến động mạnh), bằng những đóng góp vào GDP, chi tiêu cho sản xuất kinh doanh, kích thích tiêu dùng trong nước và xuất khẩu thông qua việc bán các sản phẩm của mình.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.

1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với DNVVN

1.2.1 Khái niệm về cho vay và các nguyên tắc cho vay

Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - chi nhánh bắc Hà Nội - 2

1.2.1.1 Khái niệm về cho vay

Theo quyết định số 1627/2007/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất đinh theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Thời hạn nhất định ở đây là thời hạn cho vay.”

Hay theo PGS.TS Mai Văn Bạn (trong giáo trình Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, năm 2011) thì khái niệm cho vay được hiểu là: Cho vay của NHTM là việc chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ NHTM (người sở hữu) sang khách hàng (người sử dụng) sau một thời gian nhất định quay trở lại NHTM với lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.

Cho vay DNVVN là phương thức tín dụng của ngân hàng theo tiêu thức đối tượng khách hàng. Đây là loại hình DN chiếm đa số và rất đa dạng trong các khách hàng của các NHTM, do đó, các NHTM cũng tập trung khai thác, tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho đối tượng khách hàng trên.

1.2.1.2 Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động cho vay

Để hoạt động cho vay được đảm bảo an toàn, phù hợp với lợi ích của cả bên cho vay và bên vay, hoạt động cho vay của các TCTD được thực hiện trên những nguyên tắc nhất định và các nguyên tắc này có ảnh hưởng quan trọng đến việc xây dựng và ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay. Các nguyên tắc đó là:

-Nguyên tắc hoàn trả: cơ sở lý luận của nguyên tắc này là dựa vào đặc điểm, với tư cách là chủ thể trung gian tín dụng, TCTD chủ yếu sử dụng số tiền huy động được từ các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để cho vay. Ở giai đoạn huy động vốn, TCTD tham gia với tư cách là người đi vay, do vậy phải có nghĩa vụ hoàn trả cho người gửi tiền đúng hạn cả gốc và lãi, muốn thực hiện được điều này, với tư cách là chủ thể cho vay, TCTD có quyền yêu cầu bên đi vay hoàn trả cho mình đúng

5

hạn cả gốc và lãi. Ngay cả chính TCTD (bên cho vay) là chủ thể vi phạm hợp đồng thì bên vay vẫn phải thực hiên nghĩa vụ trả nợ. Những vi phạm của bên cho vay sẽ chịu những chế tài xử lý như phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại chứ không thể bù trừ vào số tiền bên vay phải trả.

Để đảm bảo nguyên tắc hoàn trả, pháp luật có các quy định nhằm yêu cầu TCTD phải đánh giá khả năng của bên vay, xây dựng các phương án phòng ngừa rủi ro cũng như giám sát khoản vay hiệu quả. Bên cạnh đó, pháp luật cũng cho phép các bên có những thỏa thuận sửa đổi hợp đồng phù hợp như gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ để bên vay thực hiện tốt nghĩa vụ hoàn trả của mình.

-Nguyên tắc tín nhiệm: tín nhiệm là nền tảng của tín dụng, tức là việc chuyển giao nguồn vốn chỉ được thực hiện khi TCTD (bên cho vay) có niềm tin vào khả năng trả nợ của bên vay. Nguyên tắc tín nhiệm sẽ đảm bảo cho TCTD quyết định cho vay một cách chính xác và hiệu quả, không làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của TCTD đối với các khoản huy động vốn từ nhận tiền gửi và các hình thức huy động khác.

Để đảm bảo nguyên tắc tín nhiệm, pháp luật đã quy định bên vay phải thỏa mãn những điều kiện nhất định mới được quyền vay vốn. Bên cạnh đó, pháp luật cũng cho phép TCTD được quyền đánh giá về khả năng tài chính của khách hàng rổi mới quyết định cho vay. Để có sự tín nhiệm của TCTD, bên vay cần chứng tỏ năng lực tài chính, khả năng sử dụng vốn vay và có những cam kết chắc chắn về khả năng trả nợ. Để tăng thêm sự tín nhiệm, trong nhiều trường hợp, các bên có thể thỏa thuận về các biện pháp đảm bảo khả năng trả nợ như cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh.

Tuy nhiên, cơ sở của lòng tin (sự tín nhiệm) này không đơn thuần dựa vào ý chí chủ quan của người ra quyết định cho vay mà cần thiết phải có những tiêu chí nhất định. Những tiêu chí này pháp luật cho phép TCTD được quyền quy định trong quy chế cho vay của mình. Do đó, trên thực tế có những trường hợp chủ thể có đủ điều kiện vay vốn theo quy định của pháp luật nhưng TCTD vẫn cảm thấy có yếu tố rủi ro thì vẫn có thể bị từ chối cho vay.

1.2.2 Các phương thức cho vay đối với DNVVN

Hoạt động cho vay đối với DNVVN cũng như các loại hình DN khác rất đa dạng với các tiêu chí phân loại khác nhau. Sau đây là một số phương thức cho vay cơ bản:

Căn cứ vào tính chất nghiệp vụ, cho vay được phân loại thành:

-Cho vay thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay chi vượt trội trên số tiền gửi thanh toán của mình đến một giới giạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Khách hàng có thể ký séc, lập ủy nhiệm chi,... vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (trong hạn mức) và khi có tiền nhập về tài khoản tiền gửi và ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.

6


Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả DN lẫn cá nhân vài ngày trong tháng hay vài tháng trong năm dùng để chi lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng. Hình thức vay trên đang dần được sử dụng phổ biến hơn với các DNVVN có quan hệ tín dụng thường xuyên với ngân hàng.

-Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến nhất đối với các DNVVN. Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Các khách hàng này sử dụng vốn sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất của chu kì sản xuất kinh doanh. Ngân hàng sẽ dựa vào phương án sử dụng vốn vay để xác định quy mô, thời hạn, lãi suất và các điều kiện đảm bảo khác.

Mỗi món vay được tách thành các hồ sơ vay khác nhau, số lượng cho vay của mỗi khách hàng được ngân hàng xác định như sau:

Số lượng cho vay = Nhu cầu cho sản xuất kinh doanh – Vốn chủ sở hữu tham gia – Các nguồn vốn khác tham gia.

Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng có thể thu hồi nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.

Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.

-Cho vay theo hạn mức: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tính tại thời điểm tính.

Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Ngân hàng ước lượng các hạn mức tín dụng đối với DN căn cứ vào phương án sản xuất kinh doanh và nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa trên tổng giá trị tài sản đảm bảo, khả năng nguồn vốn của ngân hàng.

Trong kì, khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức tín dụng cuối kì, dư nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kì, khách hàng phải trả nợ để giảm bớt dư nợ cuối kì không được vượt quá hạn mức.

Mỗi lần vay, khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hóa hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Đây là hình

7

thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát được hiệu quả của từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện ra vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.

-Cho vay luân chuyển: Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. DN khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi khách hàng bán hàng. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể thỏa thuận trong 1 năm hoặc vài năm, đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định cho vay nữa hay không tùy mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.

Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa nên cả ngân hàng lẫn DN đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tùy theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay.

Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều được dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.

Cho vay luân chuyển thường được áp dụng cho các DN thương nghiệp hoặc DN sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.

Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục cho vay chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn hơn.

Hình thức cho vay như trên rất ít được sử dụng với các DNVVN.

Ngoài các phương thức cho vay phổ biến trên đối với DNVVN thì còn có các phương thức cho vay mà các phương thức này ít được áp dụng ở các ngân hàng. Cụ thể:

-Cho vay trả góp: là hình thức cho vay theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Hình thức cho vay này khá hợp lý đối với các DNVVN và thường được áp dụng kết hợp với các hình thức cho vay khác.


8


-Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian, thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Hình thức vay này ít được các ngân hàng áp dụng với các DNVVN.

-Căn cứ vào thời hạn cho vay, ngân hàng phân loại cho vay thành cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn. Trong đó, các DNVVN chủ yếu sử dụng cho vay ngắn hạn với các khoản vay dưới 12 tháng và chủ yếu sử dụng để tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn.

1.2.3 Vai trò của hoạt động cho vay

Hoạt động cho vay của ngân hàng đối với DNVVN có vai trò quan trọng cho cả DNVVN và cả NHTM. Mỗi chủ thể khác nhau có mục đích và nhu cầu khác nhau trong các hoạt động của mình nên quá trình cho vay giúp họ đạt được những mục đích khác nhau. Cụ thể:

1.2.3.1 Đối với DNVVN

Đặc điểm của DNVVN là có quy mô vốn nhỏ bé và để mở rộng được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, các DNVVN cần tiếp cận các nguồn vốn vay từ bên ngoài.

-Hoạt động cho vay sẽ hỗ trợ DNVVN tái sản xuất, mở rộng sản xuất theo cả chiều sâu và chiều rộng. Nếu chỉ dựa vào nội lực và nguồn lợi nhuận giữ lại để tái sản xuất thì sẽ không đạt hiệu quả cao nhất, không phát huy tốt tiềm lực sẵn có của DN, và mất nhiều thời gian trong việc tìm kiếm nguồn vốn huy động, làm tăng chi phí trong quá trình hoạt động dẫn đến lợi nhuận giảm, nếu kéo dài có thể dẫn đến phá sản.

Khi tiếp cận được nguồn vốn vay, DNVVN sẽ chớp được thời cơ để tiến hành sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, giải quyết vấn đề việc làm, tăng đóng góp vào thu nhập quốc dân, giúp thực hiện được những chính sách kinh tế vĩ mô như: giảm lạm phát, thất nghiệp,...

-Giúp DNVVN có thể thực hiện chuyển dịch vốn đầu tư từ ngành này sang ngành khác. Việc ngân hàng, TCTD cho vay DNVVN thuộc các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau sẽ giúp nền kinh tế phân phối vốn vào các ngành phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn của ngành, của nền kinh tế một cách hiệu quả, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa.

-Tăng sức mạnh cạnh tranh giữa các DNVVN với nhau và với các DN trong và ngoài nước khác. DNVVN sẽ phải có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, quản lý tài chính tốt, không ngừng nâng cao chất lượng nguồn lao động, có thế mới tiếp cận và sử dụng được nguồn vốn một cách hiệu quả, tăng doanh thu, lợi nhuận giữ lại.


9

Việc tiếp cận được nguồn vốn vay cũng đặt ra cho DNVVN luôn phải có trách nhiệm với từng đồng vốn vay khi chịu sự giám sát và kiểm tra của ngân hàng, TCTD,... Qua đó thúc đẩy DNVVN kinh doanh hiệu quả, lành mạnh hơn.

1.2.3.2 Đối với ngân hàng

Hoạt động cho vay đối với DNVVN mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được tốt và hiệu quả hơn.

Hoạt động cho vay có hiệu quả tức là khả năng quay vòng vốn tín dụng cao, qua đó ngân hàng có thể mở rộng các hình thức dịch vụ cung cấp cho khách hàng cũng như mở rộng quy mô vốn tín dụng cho một khách hàng. Như vậy, không những duy trì mối quan hệ với khách hàng truyền thống mà còn mở rộng, thu hút thêm khách hàng mới. Đó cũng là cách để ngân hàng mở rộng thị trường, nâng cao lợi nhuận.

Hoạt động cho vay có hiệu quả sẽ làm giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý và đặc biệt là giảm những chi phí, thiệt hại rất lớn do không thu hồi được khoản tín dụng. Như vậy, sẽ gia tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng.

1.3 Đánh giá chất lượng cho vay đối với DNVVN

1.3.1 Quan niệm về chất lượng cho vay

Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động mang lại doanh thu chủ yếu cho các NHTM, do đó, chất lượng cho vay luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các ngân hàng. Hiện nay, các vị trí khác nhau thì có những quan điểm khác nhau về chất lượng cho vay.

-Theo quan điểm của khách hàng, các khoản vay có chất lượng là các khoản có vốn vay phù hợp với mục đích vay vốn, có lãi suất và kì hạn hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thủ tục đơn giản, thuận tiện nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc tín dụng và quy chế cho vay.

-Theo quan điểm sự phát triển kinh tế vĩ mô của nền kinh tế, chất lượng cho vay thể hiện ở hoạt động cho vay có phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa hay không, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo được sự hài hòa giữa hoạt động cho vay với chính sách phát triển của Chính phủ...

-Theo quan điểm của các NHTM, chất lượng cho vay thể hiện trên hai mặt cơ bản: mức độ an toàn của khoản vay và hiệu quả kinh tế của khoản vay.

Mức độ an toàn của khoản vay: được thể hiện qua khả năng hoàn trả của khách hàng. Một khoản vay chứa đựng nhiều nguy cơ không trả được nợ thì được coi là khoản vay có chất lượng kém.

Hiệu quả kinh tế của khoản vay: đó là khả năng sinh lời mà khoản vay mang lại để đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của ngân hàng. Thông qua hoạt động


10


cho vay này, các DN nhận tiền vay sẽ được hỗ trợ về vốn để mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm...đóng góp vào sự phát triển chung của toàn xã hội.

Một cách khái quát, chất lượng cho vay chính là sự đáp ứng về số lượng và chất lượng đối với nhu cầu vay vốn của bên đi vay và đảm bảo các yếu tố an toàn và lợi nhuận đối với bên cho vay. Khoản vay được coi là có chất lượng tốt khi nó mang lại lợi ích kinh tế cho cả khách hàng và ngân hàng và cho cả xã hội.

1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay

Chất lượng cho vay đối với DNVVN là một khái niệm vừa cụ thể (thông qua các chỉ tiêu định lượng có thể tính toán được như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn,..) lại vừa trừu tượng (thể hiện ở khả năng thu hút khách hàng, đóng góp vào nền kinh tế,..). Từ đó, để đánh giá chất lượng cho vay của NHTM đối với các DNVVN, có 2 nhóm chỉ tiêu: chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng.

1.3.2.1 Nhóm các chỉ tiêu định tính

Khó có thể đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể cho các chỉ tiêu định tính. Do đó, tùy vào mỗi ngân hàng khác nhau sẽ tự xác định tiêu chí cho các chỉ tiêu định tính. Có thể kể đến vài chỉ tiêu như sau:

-Tuân thủ theo cơ sở pháp lý, nguyên tắc và quy trình tín dụng

Hoạt động cho vay có chất lượng phải tuân thủ các quy định của pháp luật nhà nước: luật các tổ chức tín dụng, các quy chế cho vay, các văn bản của Ngân hàng Nhà nước và các văn bản có liên quan.

Khi tiến hành hoạt động cho vay, phải luôn đảm bảo tuân thủ các quy trình cho vay, nguyên tắc cho vay vì nó giúp phòng ngừa rủi ro, đánh giá được chất lượng cho vay. Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các quy định của ngân hàng Nhà nước và các NHTM như: Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn và lãi đúng hạn, sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, ngân hàng chỉ được tài trợ trên các dự án có hiệu quả.

Nếu ngân hàng thực hiện đúng theo quy trình cho vay, thì ngân hàng có thể đánh giá đúng tình hình tài chính của khách hàng, từ đó, giúp đưa ra quyết định tài trợ phù hợp, đảm bảo an toàn và hạn chế rủi ro cho ngân hàng.

-Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù hợp với yêu cầu cạnh tranh, phát triển kinh doanh của ngân hàng theo từng thời kì cụ thể.

Chỉ tiêu trên được thể hiện trong chính sách tín dụng của ngân hàng. Chính sách tín dụng cho ta biết về chủ trương của ngân hàng là hướng dẫn chung cho cán bộ, nhân viên ngân hàng tăng cường chuyên môn và tạo sự thống nhất. Chính sách tín dụng của một ngân hàng cũng cho biết được chiến lược phát triển tín dụng của ngân hàng đó.


11

-Mức độ thỏa mãn nhu cầu tài trợ của khách hàng và chi phí cho vay.

Chất lượng cho vay của ngân hàng với khách hàng được cho là tốt khi mà ngân hàng có khả năng đáp ứng được kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng. Để đảm bảo yêu cầu trên, ngân hàng cần có hệ thống đánh giá, dự báo, phân tích nhu cầu của khách hàng thật chính xác, từ đó nâng cao chất lượng cho vay. Đồng thời, việc đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý của khách hàng một cách nhanh chóng giúp làm tăng thêm uy tín của ngân hàng.

-Đóng góp của hoạt động cho vay của ngân hàng vào sự phát triển kinh tế - xã hội.

Thông qua cho vay đối với các DNVVN thì các ngân hàng đã đóng góp vào sự phát triển chung của kinh tế - xã hội, tăng việc làm, thúc đẩy sản xuất phát triển,... Tuy nhiên, đây là một chỉ tiêu khó có thể đánh giá chính xác. Bởi vì, sự phát triển của kinh tế - xã hội không chỉ thể hiện ở một phía là sự tăng trưởng GDP mà nó thể hiện ở tất cả các mặt trong nền kinh tế chung như giáo dục, an sinh xã hội, ổn định kinh tế, chính trị,...

1.3.2.2 Nhóm chỉ tiêu định lượng

Vì các chỉ tiêu định tính rất khó xác định hiệu quả nên người ta thường sử dụng các chỉ tiêu định lượng làm các chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá chất lượng của hoạt động cho vay. Đây là các chỉ tiêu rất quan trọng với các NHTM, thông qua các chỉ tiêu này, ngân hàng có thể xác định một cách tương đối chính xác về chất lượng cho vay đối với các DNVVN của ngân hàng. Do đó, việc tính toán cần đảm bảo sự chính xác và đầy đủ.

-Doanh số cho vay đối với DNVVN:

Doanh số cho vay đối với DNVVN thể hiện tổng lượng vốn mà ngân hàng đã cho các DNVVN vay trong một thời kì cụ thể. Nó được tính bằng cách cộng dồn các khoản cho vay trong một thời kì. Con số này thể hiện xu hướng hoạt động cho vay đối với DNVVN là tăng hay giảm.

Ngoài sử dụng giá trị tuyệt đối để cho thấy xu hướng cho vay với các DNVVN, ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu về tỷ lệ tăng trưởng doanh số cho vay qua các năm

Tỷ lệ tăng trưởng DSCV=

(Trong đó: DSCV: doanh số cho vay, n: năm nay, n-1: năm trước)

-Dư nợ cho vay đối với DNVVN:

Chỉ tiêu trên phản ánh số vốn của ngân hàng cho các DNVVN vay tại một thời điểm cụ thể. Nó được tính trên số dư cuối kì trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng.


12


Cùng với chỉ tiêu doanh số cho vay, chỉ tiêu cũng dùng để đánh giá mức độ tăng trưởng tín dụng đối với DNVVN của ngân hàng. Đây là chỉ tiêu mà ngân hàng phải theo dõi thường xuyên để biết tình hình sử dụng vốn của khách hàng. Nếu dư nợ cuối kì thấp và có xu hướng giảm thì nó phản ánh chất lượng cho vay thấp. Vì hoạt động cho vay không thu hút khách hàng, không được mở rộng. Tuy nhiên, dư nợ với DNVVN cuối kì cao cũng chưa thể đánh giá chất lượng cho vay với DNVVN là tốt được. Chỉ tiêu này còn cần phải kết hợp với các chỉ tiêu khác để có thể đánh giá một cách toàn diện.

Tỷ lệ tăng trưởng DNCV=

(Trong đó: DNCV: Dư nợ cho vay, n: năm nay, n-1: năm trước).

Nếu cả hai chỉ tiêu trên đối với DNVVN cùng cao và với tốc độ tăng trưởng của hai chỉ tiêu này đều cùng dương thì chứng tỏ ngân hàng đang có tăng trưởng trong cho vay đối với DNVVN, sản phẩm cho vay của ngân hàng đã có uy tín và thu hút khách hàng. Qua đó, nhu cầu về vốn của DNVVN được ngân hàng đáp ứng tốt. Mặc dù vậy, để xét xem chất lượng cho vay đối với DNVVN có thật sự tốt ta vẫn cần phải xét đến các chỉ tiêu về thu nợ khác.

-Doanh số thu nợ với DNVVN:

Chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn đã cho DNVVN vay và đã được hoàn trả trong một thời kì cụ thể. Nó được xác định bằng cách cộng dồn các khoản thu nợ trong một thời kì. Doanh số cho vay lớn kèm theo với doanh số thu nợ cao thì mới đảm bảo chất lượng cho vay. Nếu doanh số thu nợ thấp thể hiện dư nợ quá hạn lớn, khả năng thu hồi vốn và lãi thấp thì chất lượng tín dụng là kém.

-Tỷ lệ nợ quá hạn đối với DNVVN

Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ gốc và lãi đã quá hạn. Một cách tiếp cận khác thì nợ quá hạn là những khoản tín dụng không được hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để gia hạn nợ. Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, theo quyết định số 18/2007QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 về sửa đổi một số vấn đề phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng đã phân loại các khoản nợ quá hạn thành các nhóm như sau:

Nhóm 2 (Nợ cần chú ý - Các khoản nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày) bao gồm: Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu).

Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn - Các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày) bao gồm: Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ



13

hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2, các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.

Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ - Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày) bao gồm: Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.

Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn - Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày) bao gồm: Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn, các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.

Chỉ tiêu này phản ánh rõ nhất về chất lượng cho vay đối với DNVVN của ngân hàng. Mức độ an toàn của hoạt động cho vay đối với DNVVN cũng được phản ánh qua chỉ tiêu này. Do đó, đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng cho vay với DNVVN của các NHTM:

Dư nợ quá hạn DNVVN

Tỷ lệ nợ quá hạn = x100%

đối với DNVVN Tổng dư nợ tín dụng DNVVN

Tỷ lệ nợ quá hạn cao phản ánh nguy cơ mất vốn của ngân hàng, đồng thời là nguy cơ giảm thu nhập của ngân hàng, thậm chí có thể dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh khoản nếu tỷ lệ này quá cao. Vì vậy, khi ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn quá cao sẽ được đánh giá là chất lượng cho vay thấp. Tuy nhiên, khi ngân hàng có tỷ lệ này thấp thì cũng chưa thể kết luận là chất lượng cho vay đối với DNVVN là tốt. Ta vẫn phải kết hợp với các chỉ tiêu khác để đánh giá chất lượng cho vay DNVVN của ngân hàng. Vì khi tỷ lệ này thấp, có thể ngân hàng đang theo đuổi chính sách cho vay an toàn, ít rủi ro với khách hàng DNVVN nên không mở rộng cho vay nhiều với loại hình này nên tỷ lệ tăng trưởng dư nợ và doanh số sẽ thấp.

Nhìn chung, các nguyên nhân trên đều đánh giá được khi tỷ lệ nợ quá hạn các DNVVN cao thì chất lượng tín dụng của ngân hàng đương nhiên là thấp.

-Tỷ lệ nợ xấu của các DNVVN:

Nợ xấu cho vay DNVVN

Tỷ lệ nợ xấu = x 100%

Tổng dư nợ cho vay DNVVN


Nợ xấu (hay là nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi và nợ không thể đòi) là khoản nợ mang đặc trưng sau:


14


Khách hàng không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng khi các cam kết về cho vay hết hạn.

Tình hình tài chính của khách hàng đang có chiều hướng xấu dẫn tới có khả năng ngân hàng không thể thu hồi được cả vốn và lãi.

Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi.

Theo quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007, nợ xấu của TCTD bao gồm các nhóm nợ: Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn, nhóm nợ nghi ngờ, nhóm nợ có khả năng mất vốn. Theo quy định hiện hành thì nhóm nợ này không được vượt quá 5% tổng nợ quá hạn.

-Tỷ lệ nợ xấu so với nợ quá hạn:

Tỷ lệ này cho thấy trong tổng số nợ quá hạn của ngân hàng thì có bao nhiêu là nợ xấu không có khả năng thu hồi nợ và lãi, đồng thời cũng cho biết chất lượng cho vay của ngân hàng là tốt hay xấu. Tỷ lệ này được tính theo công thức:

Tổng nợ xấu

Tỷ lệ nợ xấu trên tổng nợ quá hạn= x 100% Tổng nợ quá hạn

-Vòng quay vốn tín dụng:


Doanh số thu nợ DNVVN

Vòng quay vốn tín dụng = x 100% Dư nợ cho vay DNVVN

Đây là một chỉ tiêu mà các NHTM thường tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn cho vay và chất lượng cho vay trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Nếu vòng quay vốn càng lớn thì ngân hàng sẽ có số vốn lớn và từ đó mà thu lãi được từ vốn vay cũng cao hơn. Điều này đồng nghĩa với việc sử dụng vốn hiệu quả hơn. Khả năng quay vòng vốn của các DNVVN càng nhanh, ngân hàng càng có thể đáp ứng được nhiều và kịp thời nhu cầu cho vay với các DNVVN có nhu cầu về vốn. Do vậy, chỉ tiêu này càng cao kết hợp với các chỉ tiêu khác dẫn đến chất lượng cho vay đối với DNVVN càng cao.

-Hiệu suất sử dụng vốn:

Hiệu suất sử dụng vốn được tính theo công thức sau:

Hiệu suất sử dụng vốn = Dư nợ cho vay DNVVN / Tổng nguồn vốn huy động Hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng đối với DNVVN cho biết cứ một đồng vốn

huy động được, ngân hàng sẽ sử dụng bao nhiêu để cho vay DNVVN. Hiệu suất sử dụng vốn càng cao, thể hiện ngân hàng càng quan tâm và ưu tiên cho vay đối với đối tượng là các DNVVN. Mặt khác, nếu tỷ lệ này quá cao thì rủi ro cho ngân hàng cũng


15

Xem tất cả 64 trang.

Ngày đăng: 17/04/2022