Nguyên Nhân Dẫn Đến Những Khó Khăn, Tồn Tại Trong Hoạt Động Hđv:


bị đình trệ, trong khi đó doanh nghiệp phải trả lãi cao khiến cho nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng không trả được nợ ngân hàng, buộc phải phá sản, phát mãi tài sản.

Sức hấp dẫn của các loại hình kinh doanh khác như vàng, các loại ngoại tệ…đang có xu hướng gia tăng. Giá vàng, giá USD liên tục tăng đặc biệt là từ giữa năm 2010 cho đến nay, người dân đã rút tiền ra khỏi ngân hàng để mua vàng, USD tích trữ hoặc mua đi bán lại để hưởng chênh lệch. Các NHTM phải dùng nhiều phương pháp, công cụ để thu hút lượng tiền gửi như tăng lãi suất huy động, chính sách ưu đãi khuyến mãi….nhưng lượng tiền thu hút vào NH gia tăng không nhiều.

Sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng: Do hoạt động ngân hàng đem lại lợi nhuận cao nên ngày càng có nhiều ngân hàng được thành lập.Theo số liệu của NHNN, hiện cả nước có 52 ngân hàng thương mại được cấp phép hoạt động và 50 chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài, đưa tổng con số lên hơn 100 ngân hàng cùng với đó là việc thành lập và hoạt động của hàng loạt công ty tài chính, quỹ tín dụng từ Trung ương tới địa phương.

Hoạt động NH bị tác động mạnh bởi thị trường tiền tệ và cơ cấu lãi suất. Do huy động vốn khó khăn, nên hầu hết các NHTM phải sử dụng nhiều biện pháp, công cụ để giữ và thu hút nguồn vốn. Có một số thời điểm các NHTM đã tăng lãi suất huy động quá cao sát với lãi suất cho vay, làm cho thị trường tiền tệ bị xáo trộn, khách hàng rút tiền từ NH này sang gửi NH khác, khiến cho việc hoạch định kế hoạch kinh doanh trong tương lai của các NHTM gặp nhiều khó khăn.

Tuy có nhiều sản phẩm dịch vụ NH được đưa ra, song có một số sản phẩm vẫn chưa phát triển như Bao thanh toán, Future, Option, chủ yếu vẫn là thanh toán T/T, L/C.

Trong thời gian qua, việc trả lương qua thẻ đang được triển khai rộng rãi, số lượng chủ thẻ gia tăng nhưng số lượng máy ATM tương đối ít, nhất là việc lắp đặt ATM tại các khu công nghiệp, khu chế xuất không đủ đáp ứng nhu cầu rút tiền của công nhân vào những ngày lĩnh lương, thường xuyên hết tiền, bảo dưỡng nên việc trả lương bằng tiền mặt vẫn được ưa thích hơn.


Vấn đề rủi ro thanh khoản chưa được quan tâm đúng mức: mặc dù lãi suất huy động tăng cao nhưng trên thực tế thì nguồn vốn huy động của các NHTM đạt được không như ý muốn của các nhà quản lý. Mục đích của người gửi tiền chủ yếu là số tiền lãi được hưởng nên khi có sự chênh lệch lãi suất giữa các NHTM thì dòng tiền sẽ dịch chuyển từ nơi có lãi suất thấp sang nơi có lãi suất cao, vì thế việc thiếu thanh khoản có khả năng xảy ra khi có sự rút tiền quá nhiều ra khỏi NH. Chính sự thiếu hụt thanh khoản tạm thời do mất cân đối kỳ hạn giữa nguồn vốn và cho vay đã dẫn đến sự sáp nhập tự nguyện của 3 ngân hàng TMCP Đệ Nhất, NHTMCP Việt Nam Tín Nghĩa và NHTMCP Sài Gòn vào ngày 06/12/2011.

*Một số điểm mạnh của NH nước ngoài ở Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.

Trước đây, các NH nước ngoài có xu hướng xây dựng mạng lưới hoạt động với một đối tác trong nước (thường là NH nội địa). Hiện nay tuy vẫn mua cổ phần và tham gia quản lý một số NH trong nước nhưng nhiều NH đang có kế hoạch mở chi nhánh và phát triển mạng lưới hoạt động.

Với danh tiếng và hình ảnh của mình, các NH nước ngoài đang và sẽ là đối thủ cạnh tranh rất mạnh của các NH trong nước thể hiện ở:

Giải pháp huy động vốn tại một số ngân hàng thương mại Việt Nam trên địa bàn TP.HCM - 9

Các NH ngoại đã có thế mạnh về nguồn vốn từ NH mẹ, mạng lưới giao dịch toàn cầu, hệ thống trang thiết bị hiện đại, chất lương dịch vụ tốt.

Phong cách làm việc chuyên nghiệp, nhiệt tình, cởi mở, niềm nở đối với khách hàng của đội ngũ nhân viên khiến cho khách hàng cảm thấy rất hài lòng, thích đến giao dịch với NH nước ngoài.

Các NH nước ngoài chủ yếu tập trung vào lĩnh vực bán lẻ, kinh doanh vốn và thị trường ngoại hối, nghiệp vụ ngân hàng toàn cầu, thanh toán quốc tế, trong khi đó lợi nhuận của các NH nội chủ yếu từ hoạt động cho vay, mang tính rủi ro cao.

Sản phẩm dịch vụ của các NH nước ngoài rất đa dạng đáp ứng cho nhiều đối tượng: không những cho các khách hàng lớn (tập đoàn nhà nước, tổng công ty, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) mà còn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tín dụng cho các cá nhân và hộ gia đình như cho vay tiêu dùng cá nhân, cho vay thế


chấp, các sản phẩm thẻ, sản phẩm tiền gửi và các sản phẩm bảo hiểm, sản phẩm tài trợ thương mại và vốn lưu động thông qua việc cấp hạn mức tín dụng nhiều tiện ích. Các chính sách của NH nước ngoài cũng thoáng hơn, với thế mạnh về nguồn vốn của mình các NH nước ngoài đang thu hút các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động kinh doanh có hiệu quả nhưng gặp khó khăn về vốn do không vay được của

các NHTM trong nước.

2.5.3. Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, tồn tại trong hoạt động HĐV:

Sự bất ổn của tình hình kinh tế: Trong khi quá tập trung vào tăng trưởng tín dụng, nền kinh tế xuất hiện những diễn biến bất lợi như giá cả tăng cao, doanh nghiệp vay vốn gặp khó khăn do chi phí tăng. Trước tình hình đó, NHNN đã thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, hậu quả là lãi suất thực âm, trần lãi suất bị khống chế ở mức 14%/năm.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã gây ra rất nhiều khó khăn đối với hoạt động của ngành ngân hàng. Những tháng đầu năm 2008 lãi suất tăng cao, tỷ giá, giá vàng diễn biến phức tạp trong một thời gian dài.Chính phủ và NHNN đã sử dụng nhiều biện pháp để điều hành nền kinh tế, điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế vĩ mô. Thị trường tiền tệ diễn biến bất thường cùng với những tác động xấu của khủng hoảng tài chính và hiệu ứng của việc tăng trưởng tín dụng quá nóng đã ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM.

Các kênh đầu tư khác như vàng, ngoại tệ đang hấp dẫn hơn trước tình trạng mất giá của đồng Việt Nam, đặc biệt khi NHNN siết chặt trần lãi suất huy động 14%/năm đối với VND, và 2%/năm đối với USD. Với mức lãi suất này, số tiền lãi từ việc gửi tiết kiệm sẽ không đủ cho tiêu dùng. Một số lượng lớn tiền gửi đã bị rút ra khỏi NH để mua vàng, ngoại tệ do tâm lý của người dân về sự tăng giá trong tương lai. Họ cảm thấy yên tâm hơn khi đầu tư vào lĩnh vực này.

Công tác huy động vốn vẫn còn nặng về các biện pháp huy động vốn truyền thống chủ yếu thực hiện thông qua công cụ lãi suất, chưa tiếp thị rộng khắp đến các khu vực dân cư. Các hình thức quảng cáo, khuyến mãi vẫn còn hạn chế một phần do


cơ chế, một phần do thiếu tính sáng tạo, thiếu chủ động trong nghiên cứu, đề xuất các biện pháp huy động vốn.

Chất lượng dịch vụ NHTM trong nước còn kém so với các NH nước ngoài.

Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động NH vẫn còn hạn chế, máy móc thiết bị vẫn chưa đáp ứng tốt cho nhu cầu hoạt động, đường truyền thường rớt mạng. Tuy các NHTM đã đầu tư rất lớn về công nghệ kỹ thuật, song nhìn chung công nghệ của hệ thống NHTM ở nước ta vẫn còn khá lạc hậu, vẫn còn thua so với nước ngoài.

Thời gian xử lý giao dịch mất nhiều thời gian, thủ tục phức tạp, nhiều giấy tờ, khách hàng phải qua nhiều bộ phận mới hoàn tất một giao dịch.

Thái độ phục vụ chưa tốt, chưa niềm nở, nhiệt tình ở một số nhân viên của NH đã gây sự phản cảm nơi khách hàng.

Việc tuân thủ pháp luật, quy chế, cơ chế nội bộ, đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ ở một số ngân hàng còn chưa tốt. Thời gian qua, nhiều hiện tượng chiếm đoạt, gian lận của một số nhân viên NH khiến người dân càng mất lòng tin, không yên tâm khi gửi tiền vào NH.

Sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng:

Hoạt động NH chịu sự tác động mạnh bởi thị trường tiền tệ. Do huy động vốn gặp nhiều khó khăn nên nhiều NH phải sử dụng nhiều biện pháp để giữ và thu hút nguồn vốn. Có một số thời điểm các NHTM đã tăng lãi suất huy động quá cao sát với mức lãi suất cho vay, làm cho thị trường tiền tệ bị xáo trộn, khách hàng rút tiền từ NH có lãi suất huy động thấp sang gửi ở những NH có lãi suất huy động cao hơn, khiến cho việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN gặp nhiều khó khăn.

Các dịch vụ NH hiện đại tuy có triển khai nhưng phần lớn chưa phát triển nhiều, đặc biệt là các nghiệp vụ như bao thanh toán, Future, Option.

Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn chưa phát triển, người dân chưa có thói quen giao dịch qua ngân hàng nhiều.

Đại đa số người dân Việt Nam vẫn dùng tiền mặt là chủ yếu trong các hoạt động thanh toán. Thanh toán bằng tiền mặt chiếm đến 30% bán buôn và 95% trong bán lẻ tại Việt Nam. Những tiện ích về dịch vụ ngân hàng bán lẻ nhất là dịch vụ thanh


toánbằng thẻ hầu như còn xa lạ với các tầng lớp dân cư. Vì vậy, khi dân số ngày

càng tăng, các giao dịch thanh toán và khối lượng thanh toán ngày càng lớn, sự gia tăng cung ứng các dịch vụ không dùng tiền mặt của NHTM là hết sức cần thiết. Các NHTM cần tư vấn, giới thiệu những tiện ích trong việc sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đến người dân.

Hệ thống luật pháp còn chưa đầy đủ, thiếu tính đồng bộ và nhất quán, còn nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập kinh tế ngân hàng: Văn bản của NHNN vừa mới ban hành trong thời gian ngắn đã phải sửa đối, bổ sung. Tính thiếu minh bạch của thông tin, đặc biệt là các quy định về tài chính, kế toán, hợp đồng lao động, hợp đồng tín dụng và các chế tài kinh tế khác gây nhiều khó khăn cho các ngân hàng, nhất là khi khả năng thực thi của pháp luật còn chưa cao.


KẾT LUẬN CHƯƠNG II


Chương II nêu lên được thực trạng và kết quả đạt được của quá trình huy động vốn của một số NHTM trên địa bàn TPHCM trong thời gian qua. Trong những năm qua, số lượng NHTM tăng cao khiến cho sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, để có thể tồn tại và phát triển, các NHTM không ngừng không ngừng học hỏi, nâng cao chất lượng phục vụ bằng việc đổi mới công nghệ kỹ thuật, xây dựng đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, đa dạng các hình thức huy động vốn, tăng cường quảng bá, tiếp thị nhằm thu hút khách hàng. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được vẫn còn nhiều hạn chế như: ảnh hưởng của lạm phát, cuộc chạy đua về lãi suất đã đẩy chi phí huy động lên cao, làm giảm hiệu quả của quá trình huy động vốn, chính sách chăm sóc khách hàng chưa được quan tâm đúng mức, năng lực quản lý còn yếu kém; phương thức, công cụ huy động vốn chưa đa dạng, phong phú. Như vậy, để có thể gia tăng nguồn vốn, đáp ứng yêu cầu của hoạt động kinh doanh thì các NHTM cần phải có những giải pháp hợp lý, thiết thực khắc phục những yếu kém, hạn chế trên. Chương III sẽ đề ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, giúp NHTM phát huy những lợi thế vốn có của mình để từ đó phát triển một cách bền vững trong tương lai.


CHƯƠNG III

GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN TẠI MỘT SỐ NHTM VIỆT NAM TRÊN

ĐỊA BÀN TPHCM


3.1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn TPHCM đến năm 2015


TPHCM đặt mục tiêu trong 5 năm 2011-2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) trên địa bàn bình quân hàng năm đạt 12% và cao hơn 1,5 lần so với mức tăng trưởng bình quân của cả nước. Thành phố cũng phấn đấu đạt mức GDP bình quân đầu người vào năm 2015 là khoảng 4.800USD.

Trong 5 năm tới, TPHCM sẽ ưu tiên đẩy mạnh lĩnh vực dịch vụ với mục tiêu tăng trưởng giá trị ngành dịch vụ 13%/năm, tập trung phát triển 9 nhóm ngành dịch vụ chủ yếu có tiềm năng và thế mạnh của thành phố gồm tài chính-ngân hàng-bảo hiểm, thương mại, du lịch, dịch vụ vận tải-cảng và kho bãi, bưu chính-viễn thông- thông tin và truyền thông, kinh doanh tài sản-bất động sản, dịch vụ tư vấn-khoa học-công nghệ, y tế; giáo dục-đào tạo; phấn đấu trở thành trung tâm dịch vụ tầm cỡ khu vực Đông Nam Á..Cùng với đó, tăng trưởng công nghiệp dự kiến đạt hàng năm 11%, nông nghiệp 5%/năm. Cơ cấu kinh tế năm 2015 sẽ là dịch vụ 57%, công nghiệp 42% và nông nghiệp 1%.

Trong các lĩnh vực an sinh-xã hội, đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí thu nhập 12 triệu đồng/người/năm cơ bản hoàn thành (còn dưới 2%), đạt tỷ lệ 15 bác sĩ/10.000 dân, 98% hộ dân đô thị được cấp nước sạch, 100% hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh, hoàn thành xây dựng 25 xã nông thôn mới.

Hạ tầng giao thông và chống, giảm ùn tắc giao thông cũng là một nhiệm vụ trọng tâm của thành phố, trong 5 năm tới thành phố sẽ xây dựng và đưa vào sử dụng tuyến metro số 1 chợ Bến Thành - Suối Tiên dài 19,7km và đến cuối năm 2015 nâng mật độ đường giao thông trên toàn thành phố lên 1,86 km/km 2, riêng nội thành là 3,99 km/km 2.


Trong 5 năm tới thành phố cần phải tập trung hoàn thành những công trình hiện còn dở dang, đặc biệt là việc phát triển kết cấu hạ tầng phải đồng bộ để phát huy tính hiệu quả của cả hệ thống. Để có thể thực hiện được những nhiệm vụ, mục tiêu trên,thành phố cần tiếp tục đẩy mạnh việc huy động tất cả các nguồn lực xã hội cả trong và ngoài nước.

3.2. Định hướng về huy động vốn của NHTM đến năm 2015

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, áp lực cạnh tranh của ngành ngân hàng nói chung và của các NHTM trên địa bàn TPHCM nói riêng cũng ngày càng gay gắt hơn. Tình hình đó đặt ra yêu cầu đối với các NHTM phải nổ lực hơn nữa trong mọi hoạt động của mình, tìm hiểu và phát huy thế mạnh của mình, học hỏi những tiến bộ công nghệ hiện đại; tạo bước đột phá mới trong việc ổn định và gia tăng huy động vốn từ thị trường.

Nhiệm vụ trước mắt là nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các NHTM VN với thương hiệu mạnh và chất lượng dịch vụ hiện đại.

Tiếp tục thực hiện cổ phần hóa các NHTM quốc doanh còn lại theo lộ trình gia nhập WTO theo nguyên tắc thận trọng và đảm bảo ổn định kinh tế xã hội.

Tập trung mọi nguồn lực cho công tác huy động vốn, đặc biệt là huy động nguồn vốn trung, dài hạn đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Năm 2012, phấn đấu đưa chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hệ thống từ 15 - 17%, tỷ trọng huy động vốn cho đầu tư phát triển bình quân ở mức 41,1- 41,5% GDP/năm.

Tăng cường năng lực tài chính: Tiếp tục gia tăng quy mô vốn điều lệ, tài sản có, giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng.

Bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động trong nước, các NHTM sẽ mở rộng phạm vi hoạt động ra thị trường tài chính thế giới với các sản phẩm dịch vụ đa dạng, hiện đại.

Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ: bổ nhiệm những người có đầy đủ kinh nghiệm và năng lực vào Ban kiểm soát để tăng cường hiệu quả kiểm tra nội bộ nhằm giảm thiểu tối đa các rủi ro có thể xảy ra.

Xem tất cả 88 trang.

Ngày đăng: 13/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí