Quan Niệm Về Bảo Tồn, Phát Huy Và Khai Thác Các Giá Trị Di Sản Văn Hóa


Khái niệm "con người" được tác giả dùng theo nghĩa rộng, bao gồm con người khái quát. Con người cụ thể đến lượt mình lại chia thành con người cá nhân và con người tập thể. Khi chủ thể định giá là con người tập thể thì ý kiến đánh giá thường là nhận định của số đông, tức là của phần lớn các thành viên thuộc chủ thể đó.

Các tính chất của khách thể có thể được định giá theo hai hướng tích cực và tiêu cực. Những tính chất tích cực tạo nên giá trị, còn những tính chất tiêu cực tạo thành phi giá trị. Có quan niệm cho rằng cả tính chất tích cực lẫn tiêu cực đều là giá trị. Song việc coi tính chất tiêu cực cũng là giá trị đi ngược lại quan điểm dân gian phổ biến về giá trị có trong ngôn ngữ của mọi dân tộc và gây nên những rối loạn, nhầm lẫn không đáng có.

3) Xét trong quan hệ so sánh với các khách thể khác cùng loại: Giá trị là kết quả của hoạt động định giá thực hiện trên cơ sở thao tác so sánh. Khách thể định giá là các đối tượng so sánh. Tính chất của khách thể được chọn để đánh giá là tiêu chí so sánh.

4) Được định vị trong một bối cảnh không gian - thời gian cụ thể: Cuối cùng, khách thể định giá phải đặt trong quan hệ không chỉ với chủ thể và các khách thể khác cùng loại mà còn trong quan hệ với không gian và thời gian.

Chủ thể, không gian và thời gian tạo nên một hệ tọa độ ba chiều mà khách thể định giá được đặt vào. Còn hành vi định giá thì do đã bao gồm chủ thể nên chỉ cần phải định vị trong hai chiều kích còn lại là không gian và thời gian là đủ.

Giá trị tuy là tính chất của khách thể, nhưng lại được đánh giá qua cái nhìn của chủ thể nen nó là khái niệm luôn mang tính chủ quan, tương đối. Mặc dù giá trị mang tính chủ quan, tương đối, nhưng sự tồn tại cái tính chất của khách thể thì mang tính khách quan, tuyệt đối, không phụ thuộc vào cái nhìn của bất kỳ ai [107, tr.40 - 41].

Tóm lại, giá trị là quan niệm về cái có ý nghĩa được chia sẻ trong một cộng đồng xã hội. Đối với mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, nó vừa là cái được


mong muốn, vừa là cái đáng mong muốn, cần phải mong muốn. Chính vì thế, nghiên cứu giá trị giúp ta nắm được những động lực tiềm ẩn bên dưới bề mặt đời sống xã hội

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.

1.2.1.2. Quan niệm về giá trị di sản văn hóa

*Quan niệm "di sản", theo cách hiểu Hán Việt có hai nghĩa: di dời, chuyển dịch từ nơi này sang nơi khác về mặt không gian (chuyển chỗ, chuyển nơi sinh sống); để lại cho thế hệ sau, đời sau nơi ở, nơi sinh sống hoặc tài sản về mặt thời gian. Di sản văn hóa được nghiên cứu theo hàm ý thứ hai tức là sản phẩm văn hóa do thời đại trước, thế hệ trước để lại cho thế hệ sau, thời đại sau được thế hệ sau, thời đại sau nhận biết và sử dụng trong đời sống của họ.

Giá trị di sản văn hóa với phát triển du lịch ở Thủ đô Hà Nội hiện nay Qua nghiên cứu trường hợp Văn Miếu - Quốc Tử Giám - 6

Nói đến di sản, cần được thể hiện tính hai mặt: Mặt khách quan và mặt chủ quan. Theo mặt khách quan: Di sản là cái được thế hệ trước, thời đại trước sáng tạo và để lại cho thế hệ sau, thời đại sau; tồn tại khách quan đối với thế hệ sau, thời đại sau. Còn theo mặt chủ quan: Tuy di sản tồn tại khách quan song phải được thế hệ sau, thời đại sau nhận biết và sử dụng. Nếu không, chưa được xem là di sản hay không còn là di sản.

Văn hóa mang tính hệ thống và tính lịch sử. Văn hóa được lưu truyền cùng với sự phát triển của con người qua từng thế hệ. Những sáng tạo văn hóa được sản sinh để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, qua quá trình lịch sử trở thành di sản văn hóa.

"Một cách khái quát nhất, quan niệm di sản văn hóa là tổng thể những tài sản văn hóa truyền thống trong hệ thống giá trị của nó, được chủ thể nhận biết và dưa vào sử dụng nhằm đáp ứng những nhu cầu và đòi hỏi của hiện tại" [155, tr.8].

Luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi: "Di sản văn hóa gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác" [82].

Luật Di sản Văn hóa chia di sản văn hóa thành hai loại: di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể.


Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác [82].

Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Các dạng tồn tại của di sản văn hóa vật thể gồm: Di tích văn hóa khảo cổ, Di tích kiến trúc - mỹ thuật, Di tích lịch sử, Di tích dân tộc học, Các hiện vật lịch sử văn hóa… [82].

* Quan niệm về giá trị di sản văn hóa, Luật Di sản Văn hóa nhấn mạnh những cái được coi là di sản văn hóa phải có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học chứ không phải là toàn bộ những cái được con người tạo ra. Như vậy, trong nội hàm khái niệm di sản thì giá trị giữ vai trò nòng cốt, phân biệt tất cả các hiện tượng văn hóa nói chung với các hiện tượng văn hóa được coi là di sản.

Khi xem xét các GTDSVH cần phải đặt nó trong mối liên hệ tổng thể văn hóa và DSVH. Nhiều nhà nghiên cứu về DSVH ở những góc độ khác nhau nhưng đều thống nhất rằng: Di sản văn hóa là sản phẩm sáng tạo trong quá trình hoạt động của con người nhằm vươn tới đỉnh cao giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Những giá trị di sản văn hóa còn tồn tại đến hôm nay, đã chứa đựng những giá trị mà thế hệ trước đã sáng tạo, trải qua một quá trình kết tinh, chọn lọc và trao truyền lại cho thế hệ sau. Những phong tục tập quán, nghi lễ truyền thống, trang phục, kiến trúc…đều chuyển tải giá trị. Di sản văn hóa được hình dung như là hiện thân của thang giá trị hay hệ thống các giá trị, những nhân tố hình thành nên bản sắc văn hóa của một dân tộc. Đó cũng chính là các giá trị di sản văn hóa của dân tộc đang được nhận biết và sử dụng, phát huy trong đời sống xã hội hiện đại.


1.2.2. Quan niệm về bảo tồn, phát huy và khai thác các giá trị di sản văn hóa

Bảo tồn, phát huy và khai thác các giá trị di sản văn hóa chính là hoạt động biến các giá trị của di sản văn hóa thành nguồn lực phát triển KT-XH. Phát huy và khai thác giá trị di sản văn hóa có nghĩa là tập trung sự chú ý của công chúng vào các giá trị di sản bằng cách quảng bá trực tiếp hay thông qua truyền thông hay một hình thức nào đó. Phát huy giá trị di sản văn hóa có thể hiểu đó là những giá trị tích cực, được sử dụng hiệu quả vào việc giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ… như một nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, trên cơ sở đó tuyên tuyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân tinh thần yêu nước, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Để thế hệ tương lai kế thừa văn hóa truyền thống, chúng ta cần có một sự nghiệp bảo tồn, khai thác và sử dụng một cách hợp lý linh hoạt các di sản văn hóa. Bảo tồn, khai thác và phát huy luôn gắn liền với nhau trong việc xây dựng và phát triển văn hóa. Văn hóa thể hiện sức sống của dân tộc, được truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, nếu chỉ bảo tồn mà không sử dụng thì không phát huy được giá trị ẩn chứa trong di sản. Chỉ khi giá trị các di sản được phát huy, khai thác thì mới có căn cứ làm điều kiện để bảo tồn. Vì vậy, phát huy sẽ tạo ra hướng tiếp nhận, ảnh hưởng mới làm cho các giá trị văn hóa không bị lãng quên mà còn lan rộng và giữ được bản sắc của mình. Bảo tồn là căn bản làm cơ sở cho sáng tạo, phục vụ phát huy và ngược lại phát huy, khai thác giúp cho bảo tồn di sản văn hóa được hiệu quả hơn. Hình thức chủ đạo của phát huy, khai thác giá trị di sản thông qua du lịch là quảng bá hình ảnh của di sản văn hóa nhằm thu hút du khách đến tham quan, giao lưu văn hóa góp phần hiểu biết lẫn nhau, tăng cường mối quan hệ hòa bình, hữu nghị vì sự phát triển của xã hội. Đồng thời giúp cho việc phục hồi tối đa các giá trị văn hóa truyền thống, tạo tiềm lực để phát triển KT-XH. Hơn nữa, theo NCS phát triển du lịch không chỉ dựa trên giá trị văn hóa của di


sản, không chỉ góp phần bảo tồn, phát huy giá trị của di sản mà còn làm tăng thêm các giá trị của di sản (chẳng hạn giá trị kinh tế). Luận án của NCS vận dụng lý thuyết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa theo hướng này là một vấn đề mới của Văn hóa học.

1.2.3. Lý thuyết vận dụng trong luận án

Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được vận dụng vừa là cơ sở phương pháp luận, vừa là cơ sở lý luận. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, quan điểm về văn hóa và phát triển của UNESCO, quan điểm lý luận về giá trị di sản văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam và lý thuyết "phát triển bền vững", "phát triển du lịch bền vững" và "điểm sáng" để nghiên cứu vấn đề của đề tài.

1.2.3.1. Quan điểm lý luận về văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định vai trò to lớn của văn hóa đối với phát triển. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) mở ra công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cùng với sự đổi mới về mặt tư duy, nhất là tư duy phát triển, trong những năm gần đây, Đảng đã có những tìm tòi, đổi mới sâu sắc trong tư duy về văn hóa, khẳng định sâu sắc hơn nữa vai trò và tác dụng của văn hóa trong công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCHTW khóa VIII (1998) của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã khẳng định vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội ở Việt Nam hiện nay:

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội (….) Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn


kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương,…biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển [27, tr.55].

Như vậy, văn hóa không đứng ngoài phát triển. Văn hóa là nhân tố nội sinh vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là hệ điều tiết của sự phát triển KT-XH.

Đối với di sản văn hóa, Nghị quyết trên của Đảng nhấn mạnh việc "bảo tồn và phát huy di sản văn hóa" vì:

Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể [27, tr.63].

Quan điểm trên của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là cơ sở lý luận vừa là cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu vấn đề của luận án, khẳng định "di sản văn hóa là tài sản vô giá và "cơ sở để sáng tạo ra giá trị mới" thông qua việc bảo tồn, phát huy và khai thác để phát triển du lịch hiện nay.

1.2.3.2. Lý thuyết phát triển bền vững và phát triển du lịch bền vững

* Phát triển bền vững

Phát triển được xem là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành khác nhau về kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hóa… Phát triển là xu hướng tự nhiên tất yếu của thế giới vật chất nói chung, của xã hội loài người nói riêng. Mục tiêu của phát triển nhằm nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người, nâng cao các giá trị văn hóa cộng đồng.

Bên cạnh những lợi ích, "phát triển" cũng là một thách thức đối với các quốc gia hiện nay, đã và đang làm cạn kiệt tài nguyên, gây ra những tác động tiêu cực làm suy thoái môi trường. Trước thực tế đó, con người nhận thức được nguồn tài nguyên không phải là vô hạn, nếu khai thác thiếu kiểm soát sẽ dẫn đến hậu quả không chỉ làm cạn kiệt tài nguyên mà còn làm mất cân bằng


về môi trường sinh thái, môi trường nhân văn gây ra những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến quá trình phát triển của xã hội qua nhiều thế hệ. Từ nhận thức này đã xuất hiện một khái niệm mới về "Phát triển bền vững".

Năm 1980, Hiệp hội quốc tế về bảo vệ thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên (UICN) đã đưa ra "Chiến lược bảo toàn thế giới" với mục tiêu tổng thể "Đạt sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ các tài nguyên sống". Chiến lược này mới đặt ra với môi trường sinh thái.

Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển của Liên Hợp Quốc (WCED) năm 1987, trong báo cáo "Tương lai của chúng ta" đã đưa ra khái niệm "Phát triển bền vững là sự đáp ứng được những nhu cầu của hiện tại nhưng không trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau" [46]. Khái niệm về phát triển bền vững của WCED đã nêu được đầy đủ và toàn diện hơn đặc biệt là phát triển bền vững về môi trường thiên nhiên, về văn hóa

- xã hội, được nhiều quốc gia và các tổ chức sử dụng.

Tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững được tổ chức ở Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002 đã tổng kết, đánh giá và đưa ra khái niệm về phát triển bền vững một cách tổng quát hơn sau 10 năm thực hiện Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững toàn cầu: Phát triển bền vững là quá trình phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống con người trong hiện tại nhưng không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.

Như vậy, phát triển bền vững là quá trình phát triển hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và phát triển môi trường. Chương trình nghị sự 21 đã được nhiều quốc gia tham gia thông qua các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế giới trong thế kỷ 21. Đã có nhiều nước tham gia xây dựng thực hiện chương trình về phát triển bền vững như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc…

* Phát triển du lịch bền vững

Du lịch bền vững đã ra đời từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Theo Hội đồng du lịch và Lữ hành quốc tế (WTTC) năm 1996 cho rằng: "Du lịch bền vững là


việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai" [47].

Du lịch bền vững không chỉ liên quan đến vấn đề môi trường mà còn phải xét đến sự tham gia của các chủ thể tác động đến quá trình phát triển du lịch nhằm sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, duy trì sự phát triển. Vấn đề này cũng tác động không nhỏ và không tách rời đến quá trình phát triển bền vững của một quốc gia.

Định nghĩa của Tổ chức Du lịch thế giới của Liên Hợp quốc (UNWTO) đưa ra tại Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc tại Rio de Janeiro: Du lịch bền vững là việc phát triển du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thỏa mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mỹ của con người trong khi đó vẫn duy trì được sự toàn vẹn về văn hóa, da dạng sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho cuộc sống con người.

Như vậy, khái niệm "du lịch bền vững" không tách rời khái niệm "phát triển du lịch bền vững" nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của hoạt động du lịch bảo đảm sự phát triển lâu dài. Một số loại hình du lịch xuất hiện gắn với bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân, đòi hỏi sự tham gia của cộng đồng dân cư, tính trách nhiệm của chính quyền địa phương...

Thực hiện Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững, năm 2007, Chính phủ Việt Nam đã ban hành "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam" trong đó có định hướng phát triển du lịch bền vững. Để cụ thể hóa định hướng phát triển du lịch bền vững đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành chương trình hành động của ngành Du lịch kèm theo Quyết định số 564/QĐ-BVHTTDL ngày 21/9/2007 là căn cứ để các cơ quan trực thuộc xây dựng chương trình hành động cụ thể, phù hợp đảm bảo

Xem tất cả 225 trang.

Ngày đăng: 30/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí