Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang - 13

tuyển dụng cán bộ theo hướng đủ về số lượng, tinh về chất lượng, có lộ trình và bước đi thích hợp trong xây dựng đội ngũ Thẩm phán; Có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc tại các cơ quan tiến hành tố tụng. Cần mở rộng nguồn để bổ nhiệm các chức danh tư pháp, cần đánh giá và sử dụng đúng đắn đội ngũ thẩm phán; Công tác quy hoạch cán bộ phải được làm một cách khách quan, toàn diện; chú trọng cả về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực thực tiễn;

Cần bổ sung lực lượng cán bộ có trình độ chuyên môn cao cho ngành tòa án và cán bộ làm việc tại tòa án trên địa bàn các huyện.Cần thực hiện tốt chiến lược đào tạo cán bộ có chất lượng cao, xây dựng chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp để động viên khuyến khích thu hút lực lượng cán bộ có có chuyên môn cao. Có chính sách ưu tiên, đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ, công chức làm việc ở các huyện vùng cao nơi có nhiều khó khăn; Thực hiện tốt công tác luân chuyển, điều động, biệt phái cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng, tăng cường cán bộ cho các đơn vị có nhiều án nhưng chưa có đủ cán bộ theo yêu cầu của công việc.

Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ thẩm phán nói riêng ngành Tòa án nhân dân cần được triển khai đồng bộ với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp và các cơ quan hữu quan khác trên cơ sở chương trình, kế hoạch bảo đảm tính khả thi, phù hợp với yêu cầu thực tế của ngành và của địa phương [64, tr. 24].

Thứ hai. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của người tiến hành tố tụng

Bản thân đội ngũ thẩm phán, hội thẩm nhân dân, các cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải tự mình tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhận thức được tầm quan trọng về chức năng nhiệm vụ của mình, làm việc công tâm, nhiệt huyết, có tình tần trách nhiệm cao.

Các cấp ủy Đảng, thủ trưởng các cơ quan trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức cán bộ, công chức; thường xuyên quán triệt nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vị trí, vai trò của người cán bộ, công chức ngành tòa án nhân dân và mục tiêu, quan điểm,

phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ thẩm phán nói riêng của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Tạo sự đồng thuận và quyết tâm của lãnh đạo cơ quan Tòa án trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngành Tòa án trong sạch, vững mạnh theo yêu cầu cải cách tư pháp.

Thứ ba. Làm tốt công tác kiểm sát việc áp dụng pháp luật, công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát về chuyên môn

Ngành kiểm sát nhân dân cần tăng cường thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố nhà nước và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động khởi tố, điều tra, xét xử, thi hành án; Thanh tra chuyên ngành cần tăng cường công tác, thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện, rút kinh nghiệm, tìm giải pháp khắc phục những biểu hiện sai phạm, lệch lạc và cần xử lý nghiêm minh đối với những tập thể, cá nhân, cán bộ công chức có vi phạm. Đối với những trường hợp cán bộ, công chức có hành vi lợi dụng quyền hạn, chức vụ, nghề nghiệp làm trái với các quy định của pháp luật gây ảnh hưởng đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp những người tham gia tố tụng thì cần phải nghiêm khắc xử lý; TAND tối cao cần tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc việc xét xử của các tòa án các cấp từ đó có thể phát hiện được những sai lầm để "uốn nắn" và có những hướng dẫn cụ thể, kết quả kiểm tra cần được thông báo đến các tòa án nhân dân địa phương; Cần làm tốt hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nó sẽ tạo sự sự hỗ trợ đắc lực cho việc thực thi nhiệm vụ của các cơ quan.

Thứ tư. Tăng cường tổng kết thực tiễn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Cần thường xuyên tổng kết kinh nghiệm trong giải quyết các vụ án hình sự nói chung và trong giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm nói riêng. Trong đó tổng kết việc áp dụng pháp luật trong hệ thống cơ quan toà án theo những chủ đề nhất định và trong một thời gian nhất định, nêu ra các bản án, quyết định đúng đắn, chính xác, có tính mẫu mực để toàn ngành học tập và những bản án, quyết định đã ban hành chưa chính xác, chưa thoả đáng, còn có những sai lầm để rút kinh nghiệm. Trên cơ sở đó đưa ra những đánh giá thực chất về sự chính xác,

phù hợp thực tiễn của các quy phạm pháp luật. Từ đó, cần có những đề nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, giải thích, hướng dẫn những quy phạm pháp luật nhằm không ngừng nâng cao tính khả thi của các văn bản pháp luật.

Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang - 13

Nghiên cứu các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về đồng phạm đối với trội trộm cắp tài sản có liên hệ với thực tiễn xét xử các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm giúp chúng ta rút ra một số vấn đề chưa hoàn thiện về lý luận, về quy định pháp luật và những tồn tại, vướng mắc trong quá trình áp dụng lý luận, quy định của pháp luật vào thực tiễn xét xử; từ đó chỉ ra được những vấn đề còn bất cập, chưa phù hợp, chưa thống nhất giữa lý luận và thực tiễn xét xử, tìm ra những nguyên nhân của tồn tại hạn chế từ đó đề ra các giải pháp hữu hiệu nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc đang diễn ra. Một nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết cho các nhà lý luận và xây dựng pháp luật là không ngừng hoàn thiện về mặt lý luận cũng như các quy phạm của pháp luật hình sự nói chung và Bộ luật Hình sự nói riêng, đặc biệt là đối với các vấn đề liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản để phát huy đến mức cao nhất hiệu quả của BLHS trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản nói chung và tội trộm cắp tài sản được thực hiện dưới hình thức đồng phạm nói riêng.

KẾT LUẬN


Tóm lại, qua nghiên cứu đề tài luận văn thạc sỹ luật học: “Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) cho phép chúng tôi đưa ra một số kết luận chung dưới đây:

1. Trộm cắp tài sản là tội rất phổ biến trên địa bàn cả nước, trong đó có tỉnh Hà Giang. Trộm cắp tài sản có thể do một người thực hiện, cũng có thể do nhiều người thực hiện. Khi tội trộm cắp tài sản có sự tham gia thực hiện bởi nhiều người và những hành vi này có sự liên hệ mật thiết, tác động lẫn nhau thì trường hợp đó được gọi là đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Căn cứ vào các đặc điểm về mặt chủ quan và khách quan của tội trộm cắp tài sản, đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản có thể chia ra nhiều hình thức khác nhau đó là đồng phạm có thông mưu trước trong tội trộm cắp tài sản, đồng phạm không có thông mưu trước tội trộm cắp tài sản; đồng phạm giản đơn trong tội trộm cắp tài sản và đồng phạm phức tạp trong tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra còn có một trường hợp đặc biệt về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản, đó là trộm cắp tài sản có tổ chức. Từ những nghiên cứu về mặt chủ quan và khách quan ở phần trên thì trong đồng phạm trộm cắp tài sản dấu hiệu bắt buộc phải có gồm: dấu hiệu hành vi, năng lực TNHS và độ tuổi thuộc mặt khách quan của đồng phạm trộm cắp tài sản; dấu hiệu lỗi, động cơ và mục đích thuộc mặt chủ quan của đồng phạm trộm cắp tài sản. So với tội trộm cắp tài sản do một người thực hiện, đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản thường nguy hiểm hơn đáng kể. Do đó việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản đòi hỏi những điều kiện riêng, khác với những trường hợp phạm tội riêng lẻ.

2. Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản có đồng phạm vừa phải tuân thủ quy định chung của chế định TNHS và quyết định hình phạt, vừa phải tuân thủ quy định đặc thù của trường hợp đồng phạm. Các nguyên tắc đó bao gồm: nguyên tắc tất cả những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm đã thực hiện; nguyên tắc mỗi người đồng phạm phải chịu

trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm; nguyên tắc cá thể hòa hình phạt của những người đồng phạm. Khi quyết định hình phạt trong đồng phạm nói chung và đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản phải căn cứ vào: tính chất của đồng phạm; tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, mức độ tham gia của từng người đồng phạm; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của riêng từng đồng phạm.Việc nắm vững bản chất pháp lý của định tội danh và quyết định hình phạt trong đồng phạm sẽ giúp tòa án các cấp giải quyết các vụ án trộm cắp tải sản có đồng phạm trong thực tế được chính xác.

3. Qua thực tiễn áp dụng quy định về định tội danh và quyết định hình phạt trong đồng phạm tội trộm cắp tài sản cho thấy vẫn có nhiều thiếu sót như quyết định hình phạt quá nhẹ hoặc quá nghiêm khắc, áp dụng chế định án treo chưa phù hợp với văn bản hướng dẫn, nhận định tính chất của đồng phạm, vai trò, tính chất, mức độ tham gia của người đồng phạm chưa cụ thể rõ ràng, đánh giá các tình tiết thuộc về nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chưa toàn diện, còn bỏ sót tình tiết giảm nhẹ hoặc không có sự thống nhất trong việc áp dụng tình tiết tăng nặng giảm nhẹ...Những tồn tại này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chủ yếu là từ một số nguyên nhân cơ bản như còn một số quy định trong BLHS năm 1999 liên quan tới vấn đề đồng phạm, liên quan tới tội trộm cắp tài sản chưa được quy định cụ thể rõ ràng, còn nhiều bất cập; thiếu các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hoặc có một số văn bản hướng dẫn nhưng đã cũ; chất lượng đội ngũ thẩm phán, hội thẩm nhân dân, cán bộ ngành tòa án chưa ngang tầm nhiệm vụ; những người tiến hành tố tụng còn thiếu tinh thần trách nhiệm… Để nâng cao hiệu quả hoạt động trong công tác xét xử đối với các tội trộm cắp tài sản có đồng phạm cần một loạt các giải pháp trong đó chủ yếu tập trung vào giải pháp hoàn thiện pháp luật, các giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.

Chỉ trên cơ sở nắm vững về các vấn đề lý luận như khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản; dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm theo quy định của BLHS; những căn cứ của việc định tội danh trong tội trộm cắp tài

sản có đồng phạm; các căn cứ quyết định hình phạt trong vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm cũng như hiểu sâu sắc các quy định của BLHS và các văn bản hướng dẫn về chế định đồng phạm và tội trộm cắp tài sản thì mới vận dụng tốt khi giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm.

4. Nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản tại Hà Giang không những là cơ sở khoa học để hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về đồng phạm và tội trộm cắp tài sản trong BLHS mà nó còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định và áp dụng đúng đắn, thống nhất các vấn đề về định tội danh và quyết định hình phạt trong quá trình giải quyết vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang cũng như đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm liên quan tới trộm cắp tài sản và giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, giữ vững trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương (2014), "Tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Cải cách tư pháp.

2. Bộ Tư pháp (1998), “Luật hình sự của một số nước trên thế giới”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (Chuyên đề).

3. Phạm Văn Beo (2009), Luật hình sự Việt Nam, (Quyển I – Phần chung), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Lê Cảm (2005) “Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm”, Tạp chí TAND.

5. Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Sách chuyên khảo sau đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

6. Lê Cảm (chủ biên) (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), tái bản năm 2003 và 2007, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

7. Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (2011), Định tội danh: lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

8. Nguyễn Ngọc Chí (1998), “Đối tượng của các tội phạm xâm phạm sở hữu”,

Tạp chí Nhà nước và pháp luật.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

11. Nguyễn Khắc Hải (1999), “Nhận diện tội phạm có tổ chức”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999.

12. Nguyễn Khắc Hải (2007), “Đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức theo pháp luật hình sự Liên bang Nga”, Tạp chí Khoa học – ĐHQG Hà Nội.

13. Nguyễn Văn Hảo (1962), Bộ luật hình sự Việt Nam, Bộ Tư Pháp, Sài Gòn.

14. Bùi Đăng Hiếu (2005), “Tiền một loại tài sản trong quan hệ pháp luật hình sự”, Tạp chí Luật học.

15. Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

16. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang (2013), Báo cáo kết quả giám sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trên địa bàn tỉnh năm 2013, Hà Giang.

17. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang (2014), Báo cáo kết quả giám sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trên địa bàn tỉnh năm 2014, Hà Giang.

18. Hoàng Văn Hùng (2007), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống tội phạm này ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

19. Lê Thị Khanh (2002), Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.

20. Đặng Xuân Mai (1989), Làm gì để phòng chống tội phạm, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

21. Nguyễn Đức Mai (2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 phần các tội phạm, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Lê Thúy Phượng (1999), “Vấn đề định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong bộ luật hình sự năm 1999”, Tạp chí TAND.

23. Trần Thị Phương (2011), Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.

24. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (phần chung), Nxb TP. Hồ Chí Minh.

25. Đinh Văn Quế (2001), Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm, Tập 2,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

26. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1985), Bộ luật Hình sự,

Hà Nội.

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 11/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí