Những Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Các Quy Định Của Blhs Việt Nam Về Tội Trộm Cắp Tài Sản

- Thứ ba: kế thừa các tình tiết định khung hình phạt. Nhìn chung, các tình tiết định khung hình phạt về cơ bản được giữ lại như phạm tội có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát; tái phạm nguy hiểm.

- Thứ tư: giữ nguyên hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Về nội dung sửa đổi, bổ sung

- Thứ nhất, có sự đổi mới về kỹ thuật lập pháp, cụ thể tại khoản 1 Điều 173 đã bổ sung các khoản a, b, c, d. Sự sửa đổi này là hoàn toàn phù hợp vì nó mang tính khoa học trong việc xây dựng các điều luật

- Thứ hai, đối với trường hợp trộm cắp tài sản dưới 2 triệu đồng, ngoài 2 trường hợp kế thừa Điều 138 thì BLHS (sửa đổi) bổ sung thêm hai trường hợp nữa là: ”Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” thì vẫn bị xử lý hình sự (điểm c, d khoản 1 Điều 173).

- Thứ ba, đối với khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: BLHS (sửa đổi) đã bổ sung thêm tình tiết định khung là “Trộm cắp tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này” (điểm e khoản 2 Điều 173).

- Thứ tư, đối với khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: BLHS (sửa đổi) bỏ tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, đồng thời bổ sung thêm hai tình tiết mới định khung là “Trộm cắp tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này; lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”. (điểm b,c khoản 3 Điều 173).

- Thứ tư, đối với khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: BLHS (sửa đổi) bỏ tình tiết ”gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, đồng thời bổ sung thêm hai tình tiết định khung là “Trộm cắp tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này; lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” (điểm b,c khoản 4 Điều 173).

- Thứ năm: bỏ hình phạt tù chung thân, cụ thể tại khoản 4 Điều 173 BLHS sửa đổi quy định khung hình phạt cao nhất của tội trộm cắp tài sản là phạt tù đến 20 năm (BLHS năm 1999 quy định khung cao nhất là tù chung thân).

3.2.2. Nội dung hoàn thiện

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

* Kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLHS sửa đổi

Qua phân tích và nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn về tội trộm cắp tài sản, tôi kiến nghị như sau:

Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam) - 10

Về nội dung kế thừa:

Thứ nhất, bổ sung khái niệm tội trộm cắp tài sản vào trong Điều 173 BLHS sửa đổi

Có ý kiến cho rằng “tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút với chủ sở hữu nhằm chiếm đoạt tài sản” hay “tội trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” hoặc “trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản”….

Vì vậy, để thống nhất một cách hiểu về khái niệm này thì cần phải đưa ra một khái niệm như thế nào là tội trộm cắp tài sản là một điều hết sức cần

thiết. Có thể đưa khái niệm tội trộm cắp tài sản vào Điều 173 như sau: “Người nào chiếm đoạt tài sản của người khác một cách lén lút có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng….’

Thứ hai, rút ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa trong khung hình phạt

Theo quy định tại Điều 173 BLHS, mức tối thiểu và tối đa trong cùng một khung hình phạt quá dài. Như tại khoản 2 mức tối thiểu là 2 năm, mức tối đa là 7 năm (khoảng cách 5 năm); tại khoản 3 mức tối thiểu 7 năm, mức tối đa 15 năm (khoảng cách 8 năm); tại khoản 4 mức tối thiểu là 12, mức tối đa là 20 năm. Điều nay dễ dẫn đến việc áp dụng mức hình phạt một cách tùy tiện, phụ thuộc phần lớn vào ý chí chủ quan của Thẩm phán, Hội thẩm. Từ đó tạo sự bất bình đẳng trong quyết định hình phạt đối với cáo bị cáo. Để góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, nên sửa đổi theo hướng rút ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa trong khung hình phạt. Cụ thể: khoản 2 có mức hình phạt từ 2 năm đến 5 năm; khoản 3 có mức hình phạt từ 5 năm đến 10 năm; khoản 4 có mức hình phạt từ 10 năm đến 15 năm; bổ sung thêm khoản 5 có mức từ 15 năm đến 20 năm.

Thứ ba, cần đưa ra tình tiết định khung đối với hình phạt bổ sung là phạt tiền

Nội dung pháp lí của hình phạt tiền chính là sự tước bỏ khoản tiền nhất định của người bị kết án để sung quỹ Nhà nước. Với nội dung này thì hình phạt tiền là loại hình phạt có khả năng tác động một cách trực tiếp và có hiệu quả về mặt kinh tế đối với người phạm một số tội trong một số lĩnh vực mà luật quy định. Tuy nhiên, qua phân tích thì tác giả nhận thấy:

Trong 5 năm (từ 2011 đến 2015) TAND các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hoàn toàn không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, cho dù tính chất của mỗi vụ án khác nhau. Với chức năng hỗ trợ cho hình phạt

chính, phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung tạo điều kiện để toà án có thể xử lí triệt để và công bằng đối với người phạm tội nhằm đạt được mục đích cao nhất của hình phạt nhưng trên thực tế khi xét xử thì phần lớn Thẩm phán không áp dụng hình phạt bổ sung. Bên cạnh đó, khoảng cách phạt giữa mức tối thiểu và tối đa là khá lớn (từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng) rất dễ dẫn đến sự tuỳ tiện, không thống nhất trong khi giải quyết những vụ việc tương tự, việc áp dụng mức phạt tiền là bao nhiêu phụ thuộc vào suy nghĩ chủ quan của Thẩm phán.

Do đó, cần đưa ra ra tình tiết định khung trong điều luật đối với hình phạt bổ sung là phạt tiền để Thẩm phán căn cứ đưa ra mức phạt; hoặc vẫn giữ nguyên quy định nhưng phải có văn bản hướng dẫn chi tiết, cụ thể, rõ ràng đối với hình phạt bổ sung này.

Về những điểm mới: cơ bản tôi thống nhất với những sửa đổi, bổ sung trong BLHS (sửa đổi), tuy nhiên đối với điểm d, khoản 1 Điều 173 BLHS (sửa đổi) tôi có ý kiến như sau:

Điểm d, khoản 1 Điều 173 quy đinh: “Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại”. Những tài sản này có thể có những loại tuy giá trị quy thành tiền không đáng kể, nhưng trong từng hoàn cảnh cụ thể, nó lại có giá trị rất lớn về văn hóa, về tinh thần, thậm chí có tiền cũng không thể mua được, đặc biệt, không thể quy giá trị tài sản này thành tiền. Chúng tôi thống nhất với quy định này, tuy nhiên, cơ sở để xác định tài sản đó có giá trị ”đặc biệt về mặt tinh thần” đối với người bị hại và gia đình là điều không dễ. Cần có quy định khoa học, cụ thể, rõ ràng để quy định này áp dụng được trên thực tế.

Lập luận cho việc đưa ra mô hình lý luận của Điều luật này là ở chỗ:

Một là, đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong luật hình

sự Việt Nam trong việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, tránh làm oan người vô tội

Hai là, đảm bảo định tội danh chính xác ở các cơ quan tiến hành tố tụng.

3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam về tội trộm cắp tài sản

3.3.1. Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành áp dụng thống nhất pháp luật

Hiến pháp 2013 quy đinh: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” [33, Điều 8]. Xã hội phải được quản lý bằng pháp luật, trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, pháp luật luôn có vai trò bảo vệ các giá trị chân chính, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của con người, đồng thời tạo điều kiện để con người phát huy những năng lực thực tiễn của mình. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí, nguyện vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội

Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội đều có pháp luật điều chỉnh, pháp luật đã trở thành đòn bẩy tạo tiền đề phát triển cho tương lai. Bên cạnh đó, quan hệ xã hội luôn luôn phát triển, biến đổi không ngừng. Sự thay đổi nhanh chóng đó đòi hỏi pháp luật phải thay đổi theo. Đây chính là sự đòi hỏi phải luôn luôn không ngừng hoàn thiện pháp luật, nhằm làm cho pháp luật kịp thời phù hợp với các nhu cầu của xã hội.

Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị là văn kiện chính trị quan trọng của Đảng định hướng cho sự phát triển của hệ thống pháp luật nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thời kỳ quá độ lên CNXH. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong các nghị quyết này Đảng ta chỉ rõ cần phải:

Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hương chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế. Đồng thời, xử lý nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác. Đây là những định hướng quan trọng cho việc nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của BLHS nhằm thể chế hóa quan điểm mới về chính sách hình sự trên của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình hiện nay [5, tr. 3].

Qua 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, công tác lập pháp của nước ta đã có nhiều tiến bộ và chuyển biến cơ bản; hệ thống pháp luật Việt Nam từng bước được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý quan trọng, động lực mạnh mẽ để tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất, các văn bản quy phạm pháp luật còn có những mâu thuẫn, tính khả thi thấp, dẫn đến việc khó áp dụng cũng như đi vào thực tiễn. Hiện nay, việc áp dụng các quy phạm pháp luật, đặc biệt là các văn bản quy phạm

pháp luật chuyên ngành vào trong thực tiễn xuất hiện những mâu thuẫn, thiếu thống nhất dẫn đến việc áp dụng pháp luật trở nên khó khăn.

Có thể khẳng định, công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng các quy định của BLHS có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động áp dụng pháp luật. Qua các hướng dẫn, giải thích của TANDTC và các cơ quan tư pháp Trung ương, nhiều quy định của BLHS đã được lượng hóa một cách cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật [55, tr. 249].

BLHS sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015, có hiệu lực ngày 1/7/2016. Để BLHS sớm đi vào cuộc sống và phát huy vai trò, tác dụng tích cực là công cụ sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm thì các cơ quan chức năng cần sớm ban hành các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng BLHS sửa đổi một cách cụ thể, chi tiết, khoa học.

Đặc biệt tình hình tội trộm cắp tài sản diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng. Để tạo hành lang pháp lý trong việc phòng chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng trong tình hình mới thì cần phải bổ sung, hoàn thiện các quy định về tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành.

3.3.2. Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ

Xuất phát từ kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, pháp luật hoàn thiện cũng chỉ phát huy được tính hiệu quả của nó khi có những người áp dụng luật tốt. Vì thế, xây dựng pháp luật hình sự tốt chưa đủ mà còn cần cả việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật hình sự, áp dụng pháp luật hình sự thống nhất, công bằng mới đạt được mục đích. Nếu một Nhà nước có hệ thống pháp luật hình sự tốt nhưng lại có đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật hình sự yếu thì hiệu quả pháp luật vẫn không đạt được. Do đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung, đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, đặc biệt là Thẩm phán và Hội

thẩm nhân dân càng đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có kinh nghiệm và có bản lĩnh, đạo đức chính trị vững vàng để đáp ứng được yêu cầu đặt ra đó [55, tr. 260].

Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án các cấp hiện nay, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp đều đã được đào tạo cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp; đa số cán bộ, công chức Toà án có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác. Đội ngũ Hội thẩm đều là những người có trình độ hiểu biết pháp luật, được tập huấn về nghiệp vụ Tòa án, nhiều người nguyên là cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật đã nghỉ hưu, một số người nhiều nhiệm kỳ tham gia công tác Hội thẩm và đều có điều kiện để tham gia công tác xét xử. Đây chính là những điều kiện quan trọng tạo ra sự chuyển biến tích cực trên các mặt công tác của ngành TAND trong những năm qua, đặc biệt là trong công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận cán bộ, Thẩm phán còn hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ; tinh thần trách nhiệm trong công tác chưa cao; cá biệt còn có những cán bộ, Thẩm phán có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự…Vì vậy, nhiệm vụ trọng tâm của ngành Tòa án đó là phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án thực sự trong sạch vững mạnh, trong đó việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm trong công tác cho cán bộ, công chức Tòa án các cấp, nhất là đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm được xác định vừa là yêu cầu và vừa là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tòa án. Để thực hiện được nhiệm vụ trọng tâm đó thì ngành Tòa án cần triển khai các giải pháp cụ thể như:

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; bồi dưỡng thẩm phán, cán bộ toà án; rèn luyện phẩm chất chính trị, nâng cao trình độ

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 20/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí