Thanh…
- Loại DTLS gắn liền với các sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến. Ví dụ: Cơ quan Xứ ủy Trung Kỳ 1938 - 1939, Bến đò Vĩnh Tu…
- Loại DTLS phản ánh tội ác của thực dân, đế quốc. Ví dụ: Nghĩa địa và chùa Ba Đồn, Nhà Ngô Đình Cẩn và khu vực Chín Hầm, Địa điểm chứng tích chiến tranh hóa học của đế quốc Mỹ tại sân bay A So…
- Loại DTLS gắn liền với lịch sử ngành nghề truyền thống. Ví dụ: Khu mộ và nhà thờ ông tổ nghề Kim Hoàn, Danh nhân Ưng Bình tại Châu Hương Viên…
- Loại DTLS gắn liền tưởng niệm các chiến sĩ, đồng bào hi sinh để bảo vệ đất nước. Ví dụ: Đàn Âm Hồn, Đền thờ 27 liệt sỹ tại Ấp Tư - Mỹ Thủy, …
* Theo Điều 11, Nghị định 98/2010/NĐ-CP, DTLS được phân loại thành:
- Di tích lưu niệm sự kiện: Công trình xây dựng, địa điểm gắn liền với sự kiện lịch sử tiêu biểu của quốc gia hoặc của địa phương, mốc lịch sử quan trọng của địa phương. Ví dụ: Địa điểm Chiến thắng đồi Võ Xá, Địa điểm Chiến thắng Thanh Lương,…
- Di tích lưu niệm danh nhân: Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật tiêu biểu có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của quốc gia hoặc địa phương trong các thời kỳ lịch sử. Ví dụ: Lăng mộ Trần Thúc Nhẫn, Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở 112 Mai Thúc Loan, …
* Căn cứ vào hiện trạng, DTLS được phân chia thành:
Có thể bạn quan tâm!
- Đổi mới sử dụng di tích lịch sử ở địa phương trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1945 ở trường trung học phổ thông tỉnh Thừa Thiên Huế - 4
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Di Tích Lịch Sử Và Sử Dụng Di Tích Lịch Sử Trong Dạy Học Lịch Sử Ở Trường Trung Học Phổ Thông Tỉnh Thừa Thiên Huế
- Vấn Đề Đổi Mới Sử Dụng Di Tích Lịch Sử Ở Địa Phương Trong Dạy Học Lịch Sử
- Mối Quan Hệ Giữa Nội Dung Cơ Bản Của Lịch Sử Việt Nam Từ 1858 Đến 1945 Ở Trường Thpt Với Hệ Thống Dtls Tại Thừa Thiên Huế
- Hệ Thống Dtls Ở Địa Phương Cần Khai Thác, Sử Dụng Trong Dhls Việt Nam Từ 1858 Đến 1945 Ở Trường Thpt Tỉnh Thừa Thiên Huế
- Đổi mới sử dụng di tích lịch sử ở địa phương trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1945 ở trường trung học phổ thông tỉnh Thừa Thiên Huế - 10
Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.
- DTLS còn nguyên vẹn: Là những DTLS nhìn chung còn giữ được nguyên trạng kiến trúc, hiện vật, cảnh quan. Ví dụ: Trường Quốc Học Huế; Lăng mộ, nhà thờ, nghĩa trang Phan Bội Châu…
- DTLS không còn nguyên vẹn: Là những DTLS chỉ còn giữ lại được một phần kiến trúc, hiện vật, cảnh quan. Do tác động của điều kiện tự nhiên, môi trường, thiên tai, xã hội, chiến tranh nên hiện nay phần lớn DTLS không còn được nguyên vẹn và bị xuống cấp, hư hỏng, thậm chí trở thành phế tích.
- Địa điểm di tích: Là những địa điểm diễn ra sự kiện, hoặc là nơi đã từng tồn tại công trình gắn với sự kiện, nhân vật tiêu biểu. Ở đó, nhà nước và nhân dân thường xây dựng bia tưởng niệm để ghi nhớ sự kiện, nhân vật. Ví dụ: Địa điểm Toà Khâm sứ Trung Kỳ, Địa điểm mai táng bà Hoàng Thị Loan, Địa điểm Trường Tiểu học Pháp - Việt Đông Ba…
* Tác giả Nguyễn Thị Côi trong cuốn Bảo tàng lịch sử, cách mạng trong DHLS ở trường phổ thông trung học (1998) chia DTLS thành:
- Di tích khảo cổ: Được các nhà khảo cổ học tìm kiếm, khai quật, thường nằm trong hang động, núi cao, lòng đất. Ví dụ: Tháp Chăm Phú Diên, Tháp đôi Liễu Cốc…
- DTLS - văn hóa: Gắn liền với thành tựu văn hoá qua các thời đại, gồm nhiều loại như: Di tích tín ngưỡng, di tích kiến trúc nghệ thuật. Ví dụ: Quần thể Di tích Cố đô Huế, Đình Quy Lai, Chùa Thánh Duyên…
- DTLS - cách mạng: Phản ánh cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858), đặc biệt từ ngày có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo (1930). Ví dụ: Cơ quan Xứ uỷ Trung Kỳ (1938 - 1939), Chiến khu Dương Hoà,…
* Căn cứ vào thời gian: DTLS thời nguyên thuỷ, DTLS thời cổ đại, DTLS thời trung đại, DTLS thời cận đại, DTLS thời hiện đại.
* Căn cứ vào chương trình, SGK: DTLS sử dụng trong DHLS lớp 4, 5.., 12.
Việc phân loại DTLS chỉ mang tính tương đối, trong DHLS ở trường THPT, GV cần kết hợp tất cả các cách phân loại này. Tuỳ thuộc nội dung bài học, ý tưởng sư phạm mà GV xác định DTLS ở Thừa Thiên Huế cho phù hợp. Trong luận án, ngoài các DTLS đã được xếp hạng, chúng tôi còn giới thiệu những di tích chưa được xếp hạng, nhưng có giá trị to lớn trong DHLS Việt Nam từ 1858 đến 1945 ở cả bài nội khoá LSDT, LSĐP và HĐTN giúp GV có nhiều sự lựa chọn trong dạy học.
2.1.3. Giá trị của hệ thống DTLS ở Thừa Thiên Huế liên quan đến lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1945
Thừa Thiên Huế là vùng đất địa linh nhân kiệt. Đây là nơi mà lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, ý chí độc lập tự cường, sáng tạo văn hoá đã trở thành nét
đẹp truyền thống trao truyền qua bao thế hệ, được kết tinh trong hệ thống DTLS phân bố rộng khắp các địa phương. Theo thống kê, tính đến ngày 31/12/2019, Thừa Thiên Huế có 170 DTLS đã được xếp hạng, gồm: 89 di tích cấp Quốc gia, 81 di tích cấp Tỉnh, 2 di tích Quốc gia đặc biệt (Quần thể Di tích Cố đô Huế, Hệ thống di tích đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh qua Thừa Thiên Huế) và Quần thể Di tích Cố đô Huế còn được UNESSCO công nhận là DSVH thế giới. Trong đó, hệ thống DTLS ở Thừa Thiên Huế có mối liên hệ với lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1945 rất phong phú và đa dạng, có giá trị cao về lịch sử, khoa học, văn hoá, giáo dục và kinh tế [PL.6, PL.7]:
- Giá trị lịch sử: Không chỉ được thể hiện ở giá trị niên đại, sự hiếm có của di sản còn lại qua thời gian, với những hiện vật tiêu biểu cho một giai đoạn lịch sử, mà nó còn là dấu vết phản ánh bối cảnh lịch sử, tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,… gắn với nhân vật, sự kiện cụ thể. Các DTLS ở Thừa Thiên Huế có mối quan hệ với lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1945 đã phản ánh sâu sắc quá trình đấu tranh; ý chí, lòng dũng cảm, kiên cường của biết bao thế hệ để tạo nên một Thừa Thiên Huế quật khởi trong các phong trào yêu nước; một Thừa Thiên Huế khởi nguồn và tiếp bước các phong trào cách mạng; một Thừa Thiên Huế tháng Tám vùng lên…, với những con người mà tên tuổi gắn liền cùng dòng chảy của lịch sử như Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Chí Thanh ...
- Giá trị khoa học: DTLS ở Thừa Thiên Huế là nguồn tư liệu vật chất, hay còn gọi là nguồn “tư liệu sống”, chứa đựng các nguồn thông tin, dữ liệu đa dạng giúp nhà nghiên cứu, người học tìm hiểu, học tập lịch sử của Thừa Thiên Huế nói riêng và LSDT nói chung từ 1858 đến 1945 một cách chân thực, chính xác trên tất cả các mặt của đời sống xã hội từ lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, địa danh hành chính, phong tục, tập quán….
- Giá trị văn hoá: Là nơi duy nhất còn bảo lưu khá nguyên vẹn tổng thể kiến trúc nghệ thuật cung đình, trải qua bao biến thiên lịch sử, Huế vẫn giữ được “một kiệt tác về thơ kiến trúc đô thị” với những thành quách, cung điện, đền đài, lăng tẩm, đậm đà bản sắc truyền thống dân tộc, hoà quyện vào cảnh quan thiên nhiên.
Đặc biệt, trong thời kỳ lịch sử từ 1858 đến 1945, văn hóa, nghệ thuật, tín ngưỡng ở Thừa Thiên Huế tiếp tục phát triển. Không chỉ là trung tâm chính trị, Huế còn là trung tâm văn hóa của Chính phủ Nam triều và chính quyền thuộc địa. Quần thể Di tích kinh đô Huế được bổ sung nhiều công trình có giá trị nghệ thuật kiến trúc như Lăng Tự Đức, Lăng Dục Đức, … Các di sản phi vật thể có giá trị đại diện văn hóa Huế tiếp tục được duy trì như ca múa nhạc cung đình (nhã nhạc), mộc bản Triều Nguyễn… Huế cũng là nơi diễn ra sự tiếp biến văn hóa Đông - Tây tiêu biểu nhất ở miền Trung với hệ thống kiến trúc theo kiểu Gothique thể hiện ở các công sở của chính quyền thuộc địa và các đền đài lăng tẩm như Lăng Khải Định, Cung An Định, Lầu Kiến Trung, Cửa Hiển Nhơn, hệ thống các trường học Pháp – Việt (Trường Quốc Học, Trường Đồng Khánh…)... Đây còn là trung tâm tôn giáo tín ngưỡng của miền Trung với hệ thống chùa tháp của Phật giáo (hơn 300 ngôi chùa), nhà thờ Thiên Chúa giáo… Nhiều tín ngưỡng mới xuất hiện như lễ cúng âm hồn (kỉ niệm thất thủ Kinh đô vào ngày 23/5), lễ tế Đàn Nam Giao (trung tuần tháng hai Âm lịch), lễ tế Đàn Xã Tắc (cuối tháng Hai Âm lịch) … Những giá trị văn hoá to lớn của các DTLS gắn liền với lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1945 đã góp phần hình thành bản sắc văn hoá Huế, vừa thể hiện nét chung của văn hoá Việt Nam, vừa mang tính đặc thù riêng biệt.
- Giá trị giáo dục: DTLS là bộ mặt quá khứ của mỗi dân tộc. Lịch sử đã trôi qua, nhưng những sự tích anh hùng vẫn còn vọng mãi trong tâm hồn bao thế hệ. DTLS là tấm gương cho mỗi người tự soi bóng mình, nhắc nhở bản thân cố gắng đóng góp sức lực, trí tuệ cho đất nước. Vì vậy, ngoài giá trị về lịch sử, khoa học, văn hoá, DTLS tại Thừa Thiên Huế còn là “địa chỉ đỏ”, có ý nghĩa giáo dục và định hướng lòng yêu nước, hành động bảo vệ, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc nói chung, Thừa Thiên Huế nói riêng cho nhân dân, du khách và đặc biệt là thế hệ trẻ. Chính vì vậy, ngày 23/11/2019, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh về việc đưa giáo dục di sản vào trường học trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức lễ ký kết Biên bản ghi nhớ "Chương trình
hợp tác giáo dục Di sản văn hóa Huế tại các trường học trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế". Hoạt động này đã góp phần giáo dục HS hiểu rõ LSĐP mình, thêm yêu DSVH của dân tộc, góp phần thấm nhuần tình yêu quê hương, đất nước.
- Giá trị kinh tế: Thừa Thiên Huế nằm ở vị trí trung độ của cả nước, trên trục giao thông chính Bắc Nam, tuyến hành lang Kinh tế Đông - Tây, là cực phát triển kinh tế quan trọng của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cả nước. Bên cạnh đó, Thừa Thiên Huế đang gìn giữ kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú, đa dạng, đặc sắc trong dòng chảy văn hóa Việt Nam. Đây là lợi thế rất lớn của tỉnh để phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn mang tầm quốc gia và quốc tế; phấn đấu đến năm 2045, Thừa Thiên Huế là thành phố festival, trung tâm văn hóa, giáo dục, du lịch và y tế chuyên sâu đặc sắc của châu Á theo Nghị quyết 54- NQ/TW của Bộ Chính trị.
2.1.4. Vai trò, ý nghĩa của việc đổi mới sử dụng DTLS ở địa phương trong DHLS ở trường THPT tỉnh Thừa Thiên Huế
2.1.4.1. Vai trò
Hệ thống DTLS phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình, độc đáo về giá trị lịch sử, khoa học, văn hoá, giáo dục, kinh tế… không chỉ là nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội, mà đây còn thuận lợi lớn để các trường THPT tăng cường, đẩy mạnh khai thác, sử dụng trong QTDH. Vì vậy, đổi mới sử dụng DTLS ở địa phương có vai trò quan trọng trong DHLS ở trường THPT tỉnh Thừa Thiên Huế:
* Thứ nhất, giúp khai thác có hiệu quả nguồn sử liệu gốc quý giá, tại chỗ, làm cơ cở vững chắc cho quá trình nhận thức và tư duy lịch sử theo đúng nguyên tắc cơ bản của khoa học lịch sử: DTLS là nguồn sử liệu trực tiếp, mang tính nguyên gốc, chưa thông qua một lăng kính chủ quan nào. Vì vậy, chúng mang tính khách quan, chân thực nhất so với các loại tài liệu khác. Đặc biệt hiện nay, đổi mới PPDH lịch sử phải lấy HS và hoạt động học làm trung tâm, tăng cường sử dụng những kinh nghiệm và tri thức của địa phương, tận dụng, khai thác nguồn học liệu tại chỗ là những DSVH gần gũi, xung quanh môi trường sống, dễ tiếp cận đối với HS. Mọi DTLS ở địa phương dù được xếp hạng, hay chưa được xếp hạng đều có giá trị, là kho
sử liệu vô giá, giúp HS tạo biểu tượng sinh động, làm cơ sở để nhận thức sâu sắc các các sự kiện, nhân vật của dân tộc và địa phương và vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống. Cho nên, đổi mới sử dụng DTLS ở địa phương trong DHLS ở trường THPT tỉnh Thừa Thiên Huế sẽ giúp GV và HS khai thác hiệu quả hơn một trong những nguồn sử liệu tại chỗ, quý giá để đổi mới PPDH theo đúng nguyên tắc cơ bản của khoa học lịch sử, nhằm phát triển phẩm chất, năng lực cho HS.
* Thứ hai, phát huy hơn nữa tính trực quan sinh động, hấp dẫn của DTLS ở địa phương, giúp HS dễ dàng tái hiện và khôi phục bức tranh quá khứ một cách chân thực, chính xác: Do đặc trưng của kiến thức lịch sử, HS không thể trực tiếp quan sát các sự kiện, nhân vật trong quá khứ. Song, cũng như ở các môn học khác, học tập lịch sử đi từ “trực quan sinh động” đến “tư duy trừu tượng”. Tuy nhiên, trong giờ học, lời nói của GV dù có hấp dẫn, sinh động và giàu hình ảnh đến đâu cũng khó tạo ra hình ảnh cụ thể, chính xác, đầy đủ về hiện thực lịch sử như nó đã xảy ra. Chính vì vậy, sử dụng phương tiện trực quan, đặc biệt là DTLS ở địa phương đã khắc phục những hạn chế của quá trình nhận thức lịch sử. Các DTLS, dù là vật thật hay ảo (thể hiện qua tranh ảnh, phim tư liệu…) đều góp phần nâng cao tính trực quan bởi “những biểu hiện của các DTLS là những đồ dùng trực quan đáng tin cậy nhất, là nhân chứng trực tiếp của các thời đại xa rồi” [99, tr.32]. Đổi mới sử dụng DTLS ở địa phương được thực hiện theo hướng tăng cường sử dụng đa dạng các loại tài liệu, đặc biệt tài liệu số hoá, mở rộng không gian lớp học, kết hợp các hoạt động dạy học trong lớp học với HĐTN tại thực địa, nhờ đó tính trực quan sinh động của DTLS ở địa phương đã được khai thác triệt để, tạo ra môi trường học tập mới mẻ, thực sự lôi cuốn, hấp dẫn đối với HS.
* Thứ ba, tạo ra môi trường giáo dục thân thuộc, xung quanh và thường xuyên nhằm nâng cao hiệu quả mục tiêu giáo dục phẩm chất cho HS: DTLS là sự kết tinh của những tinh hoa do nhân dân sáng tạo ra, phản ánh ý chí nghị lực phi thường, bàn tay khéo léo, khối óc sáng tạo, lòng yêu quê hương của biết bao thế hệ người con xứ Huế trong quá trình dựng nước và giữ nước. Sử dụng chính những “bằng chứng vật chất sống động”, thân thuộc, ở xung quanh HS đã làm cho tri thức
lịch sử hàm chứa trong từng di tích sẽ in sâu vào tâm trí; những kinh nghiệm, bài học lịch sử trở nên sống động, thiết thực; những tấm gương của tiền nhân luôn hiển hiện trong bản lĩnh của mỗi người; niềm tự hào quê hương, đất nước trở thành tình cảm thiêng liêng, trân quý. Mặt khác, thế hệ trẻ là chủ nhân của đất nước. Giúp HS hiểu được sâu sắc và toàn diện vai trò, ý nghĩa của DTLS từ khi còn ở trên ghế nhà trường là một trong những biện pháp hữu hiệu để giáo dục ý thức gìn giữ và phát huy giá trị của DTLS, biến nó thành cội nguồn sức mạnh, động lực xây dựng và phát triển quê hương. Đây là trách nhiệm của nhà trường trước các bậc tiền nhân, với quê hương Thừa Thiên Huế anh hùng và thế hệ trẻ mai sau.
* Thứ tư, góp phần thực hiện tốt mục tiêu định hướng nghề nghiệp cho HS: Đổi mới sử dụng DTLS ở địa phương được thực hiện theo hướng tăng cường các HĐTN, thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, giúp HS thấy được vai trò quan trọng của Sử học đối với cuộc sống và mối quan hệ giữa Sử học với một số lĩnh vực, ngành nghề hiện đại như công tác bảo tồn và phát huy giá trị DSVH, di sản thiên nhiên, công nghiệp văn hoá, du lịch… Qua đó, HS được định hướng về mặt nghề nghiệp đi vào chuyên ngành di sản văn hóa, bảo tồn bảo tàng, hướng dẫn viên du lịch, thuyết minh viên hay các nghề liên quan đến công nghiệp văn hoá… Như vậy, đổi mới sử dụng DTLS ở địa phương đã thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn.
2.1.4.2. Ý nghĩa
Với vai trò trên, đổi mới sử dụng DTLS ở địa phương trong DHLS ở trường THPT tỉnh Thừa Thiên góp phần bồi dưỡng kiến thức, phát triển năng lực và các phẩm chất chủ yếu sau cho HS:
* Về kiến thức
- Góp phần cụ thể hoá, tạo biểu tượng sinh động về các sự kiện, nhân vật trong chương trình LSDT. LSĐP là một bộ phận, có quan hệ mật thiết với LSDT. Bất cứ một sự kiện LSDT nào cũng mang tính địa phương, vì nó diễn ra ở một địa phương cụ thể, với không gian và thời gian xác định. Tùy quy mô, tính chất của sự kiện mà có thể ảnh hưởng đến từng địa phương, quốc gia và thậm chí cả thế giới.
Cho nên, đổi mới sử dụng DTLS ở địa phương trong dạy học sẽ góp phần cụ thể hoá, làm cho các sự kiện, nhân vật trong chương trình LSDT trở nên sinh động, gần gũi, giúp HS dễ dàng giải thích, đưa ra những ý kiến nhận xét, đánh giá khách quan, chính xác.
Ví dụ: Dạy về Cách mạng tháng Tám năm 1945, GV có thể tổ chức bài học tại thực địa (Ngọ Môn) để cụ thể hoá sự kiện 30/8/1945. Khi được quan sát DTLS, cùng với tìm hiểu tài liệu, HS như được sống lại không khí của những ngày tháng Tám lịch sử, hàng vạn người dân hàng ngũ chỉnh tề tập hợp trên sân cỏ trải rộng từ trước Ngọ Môn đến chân Kỳ Đài để hoan nghênh phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và long trọng chứng kiến buổi lễ thoái vị của vua Bảo Đại. Đặc biệt, trên cơ sở biểu tượng lịch sử cụ thể, chân thực, sinh động, HS hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và tự mình lý giải được một trong những nguyên nhân thắng lợi trên cả nước nói chung, ở Huế nói riêng là nhân dân ta có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân phong kiến, một lòng đi theo sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Từ đó, các em rút ra được bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng; ý nghĩa của đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của nhân dân.
- Một yêu cầu của QTDH là“GV phải thường xuyên chăm lo sao cho bài giảng của mình không đơn thuần thuật lại SGK, mà có nội dung sinh động, hấp dẫn và sâu sắc, làm phong phú và mở rộng thêm những kiến thức vốn có của HS” [44, tr.71]. Bản thân các DTLS ở địa phương đều chứa đựng giá trị lịch sử, khoa học, văn hoá. Sử dụng di tích trong dạy học, HS không chỉ hiểu sâu hơn những kiến thức cơ bản, súc tích trong SGK, mà còn hiểu được những sự đóng góp của quê hương đối với LSDT, mở rộng hiểu biết của mình về truyền thống, văn hoá, quá trình phát triển, danh nhân địa phương…
Ví dụ: Từ ngày 23 đến cuối tháng 5 Âm lịch hàng năm, cả thành phố Huế, nhất là ở Thành Nội, nhân dân đều bày mâm giữa trời để cúng. Nhưng không phải HS nào cũng biết nguồn gốc, ý nghĩa phong tục này. Cho nên, khi dạy nội dung “Vụ phản công quân Pháp của phái chủ chiến ở Kinh thành Huế” năm 1885, GV hướng