Những Nghiên Cứu Có Liên Quan Đến Hhnh Đối Với Sản Xuất Và Xuất Khẩu Nông Sản

do cạnh tranh), các lĩnh vực hoạt động và nguồn thu tài chính của các HHNH.

Eric Costa, António Lucas Soares, Jorge Pinhode Sousab (2020), “Industrial business associations improving the internationalisation of SMEs with digital platforms: A design science research approach” (Các hiệp hội doanh nghiệp ngành hàng cải thiện quá trình quốc tế hóa của các doanh nghiệp vừa và nhỏ với nền tảng kỹ thuật số: Một cách tiếp cận nghiên cứu khoa học mô phỏng) [44]. Nghiên cứu nhằm mục đích phổ biến kiến thức mô phỏng trên nền tảng kỹ thuật số (DPs) trong bối cảnh mới do các hiệp hội doanh nghiệp ngành hàng (IBA) quản lý để cải thiện năng lực hội nhập quốc của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) trên nền tảng kỹ thuật số. Các đề xuất mô phỏng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong các tương tác xã hội: chia sẻ thông tin, cộng tác và hành động tập thể. Nghiên cứu được thực hiện dựa trên các cuộc phỏng vấn các cấp quản lý tại IBAs và SMEs ở Bồ Đào Nha và ở Anh.

Dongyang Zhang, Yumei Guo (2019), “Financing R&D in Chinese private firms: Business associations or political connection?” (Tài trợ cho R&D tại các công ty tư nhân Trung Quốc: Hiệp hội kinh doanh hay kết nối chính trị?) [43]. Sử dụng dữ liệu về các công ty tư nhân Trung Quốc, nghiên cứu về vai trò của các HHDN trong hỗ trợ các các công ty tư nhân (doanh nghiệp thành viên) tiếp cận các khoản vay ngân hàng để tài trợ cho các hoạt động R&D. Kết quả cho thấy rằng bên cạnh những kết quả cần được ghi nhận, vai trò của các HHDN cũng còn nhiều hạn chế. Vì vậy trong rất nhiều trường hợp các doanh nghiệp tư nhân đã phải “nhờ cậy” tới các mối liên hệ chính trị để có thể tiếp cận các khoản vay ngân hàng, nhất là ở những khu vực kém phát triển. Nghiên cứu ngụ ý rằng chính phủ Trung Quốc cần tiếp tục thúc đẩy một môi trường tài chính minh bạch, hỗ trợ các hoạt động đổi và nâng cao vai trò của các HHDN.

Vivek Anand Asokan, Masaru Yarime, Motoharu Onuki (2019), “Bridging practices, institutions, and landscapes through a scale-based approach for research and practice: A case study of a business association in South India” (Thực tiễn về vai trò kết nối, thể chế và cách nhìn thông qua cách tiếp cận dựa trên quy mô: Một điển hình về HHDN nghiệp ở Nam Ấn Độ) [61]. Các doanh nghiệp cần quan tâm tới các yếu tố về môi trường khi đưa ra quyết định đầu tư, kinh doanh nhằm đảm bảo quá trình phát triển bền vững. Trong thực tế, sự hiểu biết toàn diện về các tác động từ hoạt động kinh doanh tới phát

triển bền vững vẫn còn bị coi nhẹ. Thông qua nghiên cứu thực tiễn hoạt động của HHDN ở Miền nam Ấn độ, các tác giả khuyến nghị Chính phủ cần lắng nghe ý kiến, khuyến khích sự tham gia của các HHDN, các bên liên quan khác vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách phát triển.

David C.Benton, Katherine Thomas, Shirley A.Brekken (2017), “Regulatory Bodies, Professional Associations, and Trade Unions: An Integrative Review” (Cơ quan quản lý, Hiệp hội nghề nghiệp và Công đoàn: Đánh giá tích hợp) [42]. Nghiên cứu trình bày một đánh giá tổng hợp tài liệu để xác định và đánh giá sự khác biệt và tương tác của các cơ quan quản lý, hiệp hội nghề nghiệp và tổ chức công đoàn. Nghiên cứu đã được phân tích 16 lĩnh vực, chủ đề có liên quan tới cả 3 loại chủ thể. Mặc dù các chủ thể này có thể chia sẻ một số mục tiêu bao trùm, nhưng quan điểm thực hiện để đạt được những mục tiêu này thường khác nhau. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa nhất định trong cách thức nâng cao vai trò của các HHDN, HHNH trong mối quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức phi chính phủ (NGOs) có liên quan.

Guangrong Ma, Oliver Meng Rui, Yiping Wu (2015), “A springboard into politics: Do Chinese entrepreneurs benefit from joining the government- controlled business associations?” (Bàn đạp vào chính trị: Doanh nhân Trung Quốc có được lợi khi tham gia các HHDN do chính phủ kiểm soát) [47]. Nghiên cứu xem xét các tác động của việc các doanh nhân tham gia HHDN tiêu biểu nhất ở Trung Quốc, Liên đoàn Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc (ACFIC) do chính phủ khởi xướng và kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên, trái với tuyên ngôn về tôn chỉ, mục đích của tổ chức, ACFIC không thực sự hỗ trợ được nhiều, giúp các doanh nhân có thể tiếp cận được các nguồn lực, thuận lợi hóa kinh doanh. Thay vào đó, các thành viên ACFIC phải chịu thêm các chi phí và cả các khoản thanh toán không chính thức cho các quan chức chính phủ. Những phát hiện này cho thấy, dường như ACFIC là một bàn đạp để tiến vào chính trị, chứ không phải là một tổ chức hiệp hội hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả cho các doanh nghiệp thành viên.

Ju-Fang Yen, Yan-Shing Chen, Chung-Hua Shen, Chih-Yung Lin (2014), “Why do firms allow their CEOs to join trade associations? An embeddedness view” (Tại sao các công ty cho phép CEO của họ tham gia các HHNH? Quan điểm tham gia) [49]. Bài báo nghiên cứu những lợi ích tiềm năng khi các CEO


21

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.

tham gia HHNH. Trong đó các tác giả nhấn mạnh tới ưu thế mở rộng mạng lưới quan hệ, tạo tiền đề cho các liên kết, hợp tác kinh doanh, sử dụng danh nghĩa HHNH để tạo dựng các mối quan hệ cá nhân với các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tín dụng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các công ty có CEO nắm giữ chức vụ lãnh đạo trong HHNH thường dễ dàng tiếp cận với các các khoản vay lớn hơn, lãi suất thấp hơn và thời hạn cho vay dài hơn từ các ngân hàng tư nhân và cả ngân hàng thuộc sở hữu của chính phủ.

Peter Hultén, Andrew Barron, Douglas Bryson (2012), “Cross-country differences in attitudes to business associations during the 2007–2010 recession” (Sự khác biệt giữa các quốc gia về thái độ đối với các HHDN trong thời kỳ suy thoái 2007–2010) [56]. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu được thu thập thông qua khảo sát trực tuyến đối với 206 doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), được thực hiện tại Pháp, Thụy Điển và Anh. Nghiên cứu xem xét vai trò, tác động của các HHDN ở các quốc gia khác nhau trong các phản ứng chính sách của các chính phủ trong khủng hoảng tài chính. Kết quả nghiên cứu khẳng định các HHDN có vai trò tác động đáng kể tới phản ứng chính sách của chính phủ, trong đó có những hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những chủ thể gặp nhiều khó khăn, bị ảnh hưởng nhiều hơn từ khủng hoảng.

Đổi mới hoạt động của các hiệp hội ngành hàng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu nông sản trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế - 5

Nir Kshetri, Nikhilesh, Dholakia (2009), “Professional and trade associations in a nascent and formative sector of a developing economy: A case study of the NASSCOM effect on the Indian offshoring industry” (Các hiệp hội nghề nghiệp và hiệp hội ngành hàng trong một lĩnh vực non trẻ của một nền kinh tế đang phát triển: Nghiên cứu điển hình về hiệu ứng NASSCOM đối với ngành sản xuất gia công của Ấn Độ) [54]. Là các NGOs trong nền kinh tế thị trường, các hiệp hội nghề nghiệp và HHNH đóng vai trò quan trọng trong quá trình ban hành chính sách, hoàn thiện thể chế kinh tế. Trong nghiên cứu này, các tác giả đánh giá vai trò của Hiệp hội các công ty phần mềm và dịch vụ quốc gia Ấn Độ (NASSCOM) tác động tới chính sách, thể chế về ngành gia công phần mềm. Nghiên cứu khẳng định vai trò của các HHNH có thể là giải pháp thay thế nhà nước trong thúc đẩy sự phát triển của một ngành hàng.

1.2.2. Những nghiên cứu có liên quan đến HHNH đối với sản xuất và xuất khẩu nông sản

Feras A. Batarseh, Munisamy Gopinath, Anderson Monken, Zhengrong

Gu (2021), “Public policymaking for international agricultural trade using association rules and ensemble machine learning” (Hoạch định chính sách công cho thương mại nông sản quốc tế bằng cách sử dụng các quy tắc hiệp hội và phương pháp tổng hợp) [45]. Nghiên cứu xem xét tổng quan các nhân tố thúc đẩy thương mại quốc tế và kết quả của việc lưu chuyển tự do hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia và đi sâu nghiên cứu thương mại các mặt hàng nông sản và thực phẩm được giao dịch quốc tế. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp phân tích Quy tắc Hiệp hội (AR) kết hợp với các công cụ phân tích mới như trí tuệ nhân tạo (AI). Trong đó các những phân tích, đánh giá về vai trò của các HHNH trong hoạt động XNK và tác động của các HHNH đối với các luồng thương mại hàng hóa quốc gia và những dự đoán về thương mại nông sản và các gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách.

Ben-xi LIN, Yu Yvette ZHANG (2020), “Impact of the COVID-19 pandemic on agricultural exports” (Tác động của đại dịch COVID-19 đối với xuất khẩu nông sản) [39]. Sự bùng phát COVID-19 đang gây chấn động nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đại dịch lan ra toàn cầu, nhiều chuyên gia lo ngại rằng nguồn cung cấp thực phẩm toàn cầu có thể thiếu hụt, đặc biệt là nếu chuỗi cung ứng bị gián đoạn, làm tăng thêm sự không chắc chắn của hoạt động kinh doanh. Do đó, cần có đánh giá về ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến chuỗi cung ứng và thị trường thực phẩm toàn cầu. Trong nghiên cứu này, các tác giả điều tra tác động của COVID-19 đối với các công ty xuất khẩu nông sản ở Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù đánh giá tổng thể các doanh nghiệp nông nghiệp bị sụt giảm xuất khẩu, nhưng xuất khẩu của một số sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là ngũ cốc (lương thực) và dầu ăn vẫn tăng mạnh; các sản phẩm dược liệu xuất khẩu cũng tăng đáng kể. Tuy nhiên, các mặt hàng ít thiết yếu như nấm ăn, nông cụ làm vườn xuất khẩu thì giảm sút. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng nhìn chung, tác động của COVID-19 đối với các doanh nghiệp nhỏ hơn là nghiêm trọng hơn so với các doanh nghiệp lớn hơn. Nghiên cứu kiến nghị cần phải đổi mới và nâng cao vai trò của các HHDN, HHNH để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản trong bối cảnh đại dịch.

JoseBrache, Christian Felzensztein (2019),“Exporting firm’s engagement with trade associations: Insights from Chile” (Sự tham gia của công ty xuất khẩu với các hiệp hội ngành hàng: Thông tin chi tiết từ Chile) [48]. Nghiên cứu này đề cập đến những ảnh hưởng của mức độ gắn bó của công ty với các hiệp

hội ngành hàng tại thị trường xuất khẩu của công ty đối với hoạt động xuất khẩu. Nghiên cứu phân tích dữ liệu của các công ty ở Chile, một nền kinh tế mới nổi của Nam Mỹ. Kết quả cho thấy rằng sự tham gia mạnh mẽ hơn với các HHNH có tác động tích cực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Những rủi ro thị trường như sự thiếu ổn định về các yếu tố thị trường hay xu hướng, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng là những yếu tố cản trở hoạt động xuất khẩu, tuy nhiên, trở ngại này có thể được giải quyết một phần đáng kể khi các HHNH tham gia tích cực vào hoạt động XTTM. Nghiên cứu này đã chỉ ra những mức độ tác động từ hoạt động của HHNH đối với hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thành viên thông qua thúc đẩy sự hợ tác, liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất trong nước với hệ thống tiêu thụ tại thị trường xuất khẩu.

Christina Wiederer, FrankStraube (2019), “A decision tool for policymakers to foster higher-value perishable agricultural exports” (Một công cụ ra quyết định cho các nhà hoạch định chính sách để thúc đẩy xuất khẩu nông sản dễ hỏng có giá trị cao hơn) [40]. Ngành dịch vụ hậu cần (logistics) là chìa khóa cho các cơ hội thương mại, tăng trưởng và việc làm của một quốc gia, điều đó lại càng đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, nơi ngành logistics thường trong tình trạng yếu kém. Nghiên cứu được thực hiện tại Cộng hòa Kyrgyzstan trên cơ sở các cuộc phỏng vấn và phân tích dữ liệu thứ cấp. Kết quả của nghiên cứu đưa ra các khuyến nghị chính sách cải thiện chuỗi cung ứng hàng hóa nông nghiệp, phát triển dịch vụ logistics. Theo đó chính phủ cần tạo thuận lợi để khu vực tư nhân tham gia phát triển dịch vụ logistics. Trong quá trình đó, vai trò của các HHNH có vai trò hết sức quan trọng, thông qua vận động chính sách, hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, tác động tới quyết định đầu tư công vào cơ sở hạ tầng, thúc đẩy sự liên kết giữa các doanh nghiệp hình thành các chuỗi cung ứng gắn với dịch vụ logistics.

1.3. Khoảng trống trong tổng quan nghiên cứu liên quan tới đề tài

1.3.1. Nhận xét chung về các nghiên cứu trong nước

Các nghiên cứu đã đề cập tới các khía cạnh của đề tài theo những góc độ khác nhau, trong đó đã đưa ra những luận giải và ở những mức độ nhất định với thông tin, dữ liệu minh họa. Những thông tin, dữ liệu từ những báo cáo, bài viết này sẽ được tác giả nghiên cứu, tiếp thu, kế thừa và sử dụng trong quá trình thực hiện luận án. Cụ thể về những vấn đề sau:

24

(1) Lý luận chung về HHDN, HHNH và vai trò của những tổ chức này trong nền kinh tế thị trường trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế; một số nghiên cứu, bài viết đề cập tới cơ hội và thách thức trong hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay;

(2) Khuôn khổ pháp lý về tổ chức và hoạt động của HHDN, HHNH và những tồn tại, bất hợp lý trong lĩnh vực này;

(3) Một số nghiên cứu đã tham khảo kinh nghiệm quốc tế về tổ chức HHDN, HHNH và những gợi ý cho Việt Nam;

(4) Thực trạng hoạt động của các HHDN, HHNH trong thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và một số kiến nghị giải pháp.

Trong các tài liệu và báo cáo nghiên cứu trong nước nêu trên, báo cáo kết quả điều tra XHH về thực trạng hoạt động của HHDN, HHNH do Phòng TM&CN Việt Nam thực hiện (2013) và Báo cáo điều tra XHH của Bộ Nội vụ (2017), cùng hồ sơ trình Dự thảo “Luật về hội” (2017) là những tài liệu tham khảo quan trọng giúp tác giả hoàn thành luận án này.

1.3.2. Nhận xét chung về các nghiên cứu ngoài nước

(1) Những nghiên cứu nêu trên đã cung cấp kiến thức nền tảng về HHDN, HHNH trong nền kinh tế thị trường với kinh nghiệm phong phú về tổ chức, hoạt động của HHDN, HHNH tại các quốc gia phát triển, cũng như đang phát triển;

(2) Quản trị HHDN, HHNH là nội dung được nhiều báo cáo nghiên cứu đề cập với nhiều mô hình quản trị, cùng những đánh giá, phân tích sâu sắc của các chuyên gia phản ánh những ưu điểm, hạn chế của từng mô hình. Trên cơ sở đó các tác giả đưa ra những giải pháp đổi mới hoạt động quản trị HHDN phù hợp với xu hướng thị trường hiện đại;

(3) Một số nghiên cứu đã cung cấp những thực tiễn tốt về vai trò của HHNH trong hoàn thiện thể chế, ban hành và thực thi chính sách, thúc đẩy sự tiến bộ của ngành hàng; vai trò của một số HHNH nông nghiệp trong thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản.

Trong các tài liệu nước ngoài nêu trên, cuốn sách của Markus Pilgrim and Ralf Meier (1995) về hệ thống Phòng thương mại, tài liệu “Hội thảo bàn tròn chính sách” của OECD (2007) và cuốn sách của Mark Boleat (2001) về những

thực tiễn tốt trong quản trị HHNH đã gợi ý cho tác giả những ý tưởng then chốt để xác định nội dung nghiên cứu, cách tiếp cận hệ thống góp phần khẳng định “tính mới”, cùng những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn của luận án này.

1.3.3. Nhận diện khoảng trống trong tổng quan tình hình nghiên cứu

(1) Các nghiên cứu chưa luận giải thỏa đáng về tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển HHDN, HHNH trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam;

(2) Những đề xuất giải pháp đổi mới, nâng cao năng lực hoạt động của HHNH trong báo cáo vẫn ảnh hưởng nhiều bởi tư duy quản lý nhà nước (như nâng cao nhận thức về HH, tăng cường hỗ trợ từ nhà nước, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…). Các giải pháp phần nhiều mang tính “bù đắp” cho những hạn chế, yếu kém của thực trạng mà ít thể hiện một tư duy tổng thể, dựa trên một “Triết lý về hiệp hội ngành hàng”. Nghiên cứu của VCCI đưa ra Bộ chỉ số đánh giá năng lực HHDN khá toàn diện, tuy nhiên đó là phương pháp “scan” khá phức tạp, thêm vào đó Cơ quan soạn thảo khuyến nghị tất cả các nhóm chủ thể trong HHNH (từ Ban chấp hành, Ban lãnh đạo, Cán bộ văn phòng, hội viên hiệp hội) sử dụng cùng một Bộ công cụ để “tự đánh giá thực trạng năng lực” của HH là đề nghị rất ít tính khả thi4;

(3) Các nghiên cứu khi phân tích “cơ hội” và “thách thức” đối với xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế chưa phân định rò sự khác biệt giữa vai trò tham gia của các doanh nghiệp xuất khẩu và các HHNH nông sản, vì vậy chưa làm rò sứ mạng của HHNH trong khai thác cơ hội, giải quyết thách thức để góp phần đẩy mạnh xuất khẩu nông sản;

(4) Các nghiên cứu chưa đề cập tới những nguy cơ tiềm ẩn trong hoạt động của HHNH có thể dẫn tới hệ quả tiêu cực về hạn chế cạnh tranh, thao túng giá cả hay “nhóm lợi ích” trong nền kinh tế.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1 của luận án đã tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài, đánh giá những kết quả có thể kế thừa và xác định những khoảng trống


4 Xem Phụ lục 2 “Bộ công cụ tự đánh giá năng lực HHDN của VCCI”

nghiên cứu. Trên cơ sở đó tác giả định hướng, xác định nội dung nghiên cứu mà luận án cần giải quyết, đảm bảo tính mới trong nghiên cứu với những đóng góp khoa học về mặt lý luận và thực tiễn.

Hội của các tổ chức kinh tế (Hiệp hội doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng) là những chủ thể của nền kinh tế thị trường. Tại Việt Nam, do những hoàn cảnh lịch sử, HHDN, HHNH mới thực sự có điều kiện phát triển kể từ khi thực hiện chính sách “Đổi mới”, chuyển từ nền kinh tế Kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, hướng tới xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, theo định hướng XHCN. Trải qua một quãng thời gian phát triển chưa dài, do vậy trong những năm vừa qua, số lượng các HHNH ở nước ta mặc dù đã tăng lên nhanh chóng, tuy nhiên năng lực hoạt động của hầu hết các HHDN, HHNH còn nhiều mặt hạn chế. Thực trạng đó đã được phản ánh, phân tích trong một số nghiên cứu của các tác giả trong nước thời gian gần đây với những góc nhìn và quan điểm khác nhau, do vậy các tác giả nghiên cứu đã có những đề xuất giải pháp khác nhau.

Kế thừa những kết quả nghiên cứu đã được thực hiện, từ quan điểm nghiên cứu của mình, trong luận án này tác giả tập trung vào 3 nhóm nội dung chính, bao gồm (i) Những vấn đề lý luận về HHNH và đổi mới HHNH nhằm đẩy mạnh xuất khẩu; một số kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam,

(ii) Thực trạng hoạt động của các HHNH; nghiên cứu điển hình một số HHNH gắn với những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam; đánh giá những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế; (iii) Hội nhập kinh tế quốc tế và những cơ hội, thách thức đối với xuất khẩu nông sản của Việt Nam; những giải pháp đổi mới hoạt động của các HHNH góp phần đẩy mạnh xuất khẩu nông sản trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, mà trọng tâm là thực thi các FTAs.

Những nội dung này sẽ được phân tích và giải quyết trong những chương tiếp sau của luận án.

Xem tất cả 171 trang.

Ngày đăng: 08/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí