Sự phát triển của các làng nghề sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, làm tăng quy mô kinh tế, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các làng nghề là tiền đề cho sự phát triển công nghiệp, cùng các dịch vụ đi kèm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.
Bảo tồn và phát triển làng nghề tăng thêm sức mạnh nguồn cội, gieo vào lòng mỗi người Việt Nam tình cảm dân tộc, yêu quí giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam. Điều đó không gì khác là giữ gìn và phát huy một bộ phân của nền văn hoá – văn minh nhân loại làm tăng những giá trị truyền thống trong một thế giới đa phương tiện thông tin và đầy biến động.
Các sản phẩm tinh hoa của làng nghề tạo thương hiệu cho các địa phương, cho đất nước với bạn bè trên thế giới. Việc giữ gìn và phát triển nghề truyền thống là nhiệm vụ của thế hệ ngày nay.
Sự phát triển của các làng nghề đã có ý nghĩa lớn về kinh tế - xã hội và môi trường các địa phương có làng nghề.
1.3.1. Ý nghĩa về kinh tế:
Làng nghề Việt Nam mang tính tập tục truyền thống, đặc sắc, có tính kinh tế bền vững, mang đến nhu cầu việc làm tại chỗ và những lợi ích thiết thực cho các cộng đồng cư dân nhỏ lẻ trên mọi miền đất nước (chủ yếu ở các vùng ngoại vi thành phố và nông thôn Việt Nam), đồng thời góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của toàn xã hội.
Các làng nghề góp phần lớn vào quy mô sản xuất kinh tế nói chung cũng như của ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp nói riêng của các địa phương có làng nghề từ đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Sự hình thành và phát triển của các làng nghề và các dịch vụ hỗ trợ làng nghề thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH cho các địa phương làng nghề. Đó là tăng tỉ trọng của công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng của nông nghiệp.
Xuất khẩu tại chỗ hàng thủ công truyền thống thông qua việc bán cho khách du lịch đã mang lại nguồn ngoại tệ không nhỏ.
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Pháp Bản Đồ Và Hệ Thống Thông Tin Địa Lý (Gis):
- Tác Động Của Hội Nhập Đến Du Lịch Và Làng Nghề Phục Vụ Du Lịch:
- Các Làng Nghề Phát Triển Đa Dạng Về Quy Mô, Cơ Cấu Ngành Nghề Và Gắn Bó Chặt Chẽ Với Nông Nghiệp, Nông Thôn:
- Thực Trạng Phát Triển Các Làng Nghề Truyền Thống Của Tỉnh Trà Vinh.
- Các Điều Kiện Phát Triển Các Làng Nghề Truyền Thống Của Tỉnh Trà Vinh:
- Diện Tích, Dân Số Và Mật Độ Dân Số Tỉnh Trà Vinh Phân Theo Huyện Năm 2010.
Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.
Phát triển làng nghề góp phần thúc đẩy việc tăng giá trị tổng sản phẩm hàng hóa cho nền kinh tế nhằm thu nguồn ngoại tệ lớn.
Trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, làng nghề là một bộ phận quan trọng của kinh tế đất nước, là nhân tố làm thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn. Sự khôi phục và phát triển các làng nghề Việt Nam trong những năm gần đây có ý nghĩa tích cực về kinh tế - xã hội, đặc biệt trong tiến trình CNH – HĐH.
Sự hình thành và phát triển của các làng nghề và các dịch vụ hỗ trợ làng nghề thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH cho các địa phương làng nghề. Đó là tăng tỉ trọng của công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng của nông nghiệp. Tại nhiều làng nghề, tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đạt từ 60% - 80% và ngành nông nghiệp chỉ đạt 20% - 40%.
Thu hút vốn nhàn rỗi của cư dân nông thôn.
Góp phần khai thác tốt các tài nguyên thiên nhiên (nhất là nguồn nguyên liệu tại chỗ.
Phát triển làng nghề thu hút được nguồn vốn đầu tư góp phần hiện đại hóa nông thôn.
Sự phát triển của làng nghề cũng làm thay đổi tư duy, tập quán sản xuất của người dân, từ tập quán sản xuất thủ công, nhỏ lẻ, manh mún mang tính tự cung tự cấp sang sản xuất với quy mô sản xuất lớn hơn tăng cường áp dụng máy móc.
1.3.2. Ý nghĩa về xã hội và môi trường:
Làng nghề thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với việc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí của nhân dân nông thôn, trực tiếp giải quyết việc làm cho người lao động trong lúc nông nhàn, góp phần tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động, đặc biệt tạo ra bộ mặt đô thị hóa nông thôn để nông dân ly nông nhưng không ly hương và làm giàu trên quê hương mình. Làng nghề đã mở ra cho nông dân một hướng làm ăn khác trên quê hương mình. Trung bình mỗi cơ sở doanh nghiệp tư nhân chuyên làm nghề tạo việc làm ổn định cho khoảng 27 lao động thường xuyên và 8 – 10 lao động thời vụ; các hộ cá thể chuyên nghề tạo 4
– 6 lao động thường xuyên và 2 – 5 lao động thời vụ. Ở những làng nghề thêu ren, dệt, mây tre đan, mỗi cơ sở có thể thu hút 200 – 250 lao động.
Nâng cao thu nhập và đời sống của các nghệ nhân tâm huyết với nghề.
Làng nghề góp phần bảo tồn và phát huy những bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Việt và quảng bá với bạn bè quốc tế.
Góp phần cải thiện, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường. Tiến tới xây dựng tiêu chí “Làng nghề xanh” nhằm xếp loại cho các làng nghề bảo vệ môi trường theo hướng phát triển “bền vững”.
Tăng cường mạnh mẽ công tác quản lí môi trường tại các làng nghề.
Thúc đẩy các cơ sở vừa mở rộng sản xuất, vừa đầu tư theo hướng công nghệ thân thiện với môi trường, thực hiện cam kết bảo vệ môi trường.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề góp phần quan trọng vào việc khai thác sử dụng hợp lí có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Các làng nghề đã sử dụng các nguồn nguyên vật liệu đa dạng như nguồn nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên, nguồn nguyên liệu tái chế, phế phẩm của các ngành khác. Việc phát triển làng nghề cho phép chúng ta tận dụng có hiệu quả thế mạnh của đất nước về nguồn tài nguyên đất, nước, khí hậu, sinh vật và khoáng sản.
Bên cạnh những tác động tích cực, sự phát triển hoạt động sản xuất tại các làng nghề cũng mang lại nhiều bất cập. Đặc biệt nhất hiện nay là vấn đề ô nhiễm môi trường tại các làng nghề là một vấn đề nan giải, gồm: ô nhiễm đất, nước, không khí, tiếng ồn, nguồn nhiệt thừa. Từ đó dẫn đến người dân làng nghề thường mắc nhiều các bệnh về đường hô hấp, bệnh ngoài da, sự suy giảm về thính lực, thể lực. Những tồn tại về vấn đề môi trường từ nhiều năm qua trong quá trình phát triển của làng nghề có thể coi là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng môi trường làng nghề ngày càng giảm, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển bền vững tại các làng nghề.
1.3.3. Ý nghĩa đối với du lịch:
Làng nghề phát triển hỗ trợ phát triển dịch vụ du lịch và góp phần đa dạng hóa loại hình du lịch, các điểm tham quan sản xuất, phòng trưng bày sản phẩm
truyền thống ... sẽ mở rộng các tour du lịch và là lí do chính đáng để kêu gọi và giữ chân khách du lịch. Mặt khác, với những mặt hàng lưu niệm phong phú sẽ làm tăng thêm chất lượng của tour du lịch, đồng thời đó cũng là cơ hội lớn để quảng bá cho ngành du lịch. Làng nghề phát triển sẽ thúc đẩy khai thác phát triển du lịch có chiều sâu và khai thác đúng tài nguyên du lịch của địa phương đó.
LNTT đã và đang trở thành nguồn lực quan trọng cho phát triển du lịch. Hàng thủ công truyền thống là một phần quan trọng của du lịch, là một trong ít các mặt hàng phản ánh văn hóa bản địa đặc sắc. Hàng thủ công truyền thống có thể được ví như biểu tượng văn hóa và nghệ thuật của một quốc gia, là nhân tố quan trọng để hấp dẫn du khách.
Du lịch làng nghề thỏa mãn phần nào nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới xung quanh, tìm hiểu lịch sử, văn hóa, đời sống người dân Việt Nam nói chung và các làng nghề nói riêng của các du khách. Mặt khác, hoạt động du lịch làng nghề cũng có những đóng góp tích cực trong sự phát triển kinh tế - xã hội của các làng nghề đó.
Trong công cuộc CNH – HĐH nông nghiệp và nông thôn, các làng nghề không chỉ sản xuất, kinh doanh mà còn là nơi tổ chức sinh hoạt cộng đồng, mang sắc thái văn hóa riêng, có đặc trưng của từng làng theo ngành nghề truyền thống lâu đời, là nét độc đáo góp phần mở rộng, phát triển các loại hình du lịch của nước ta.
Trong những năm gần đây, loại hình du lịch làng nghề ở Việt Nam ngày càng hấp dẫn du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài.
1.4. PHÂN LOẠI LÀNG NGHỀ:
1.4.1. Phân theo số lượng làng nghề:
- Làng một nghề: là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại hoặc có một nghề chiếm ưu thế, các nghề khác chỉ có lác đác ở một số hộ, không đáng kể.
- Làng nhiều nghề: là làng xuất hiện và tồn tại nhiều nghề có tỉ trọng các nghề chiếm ưu thế gần tương đương nhau.
1.4.2. Phân theo tính chất nghề:
- Làng nghề cổ: là những làng nghề xuất hiện từ lâu trong lịch sử và còn tồn tại đến ngày nay.
- Làng nghề mới: là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan tỏa của các làng nghề hoặc được du nhập từ các địa phương khác.
1.4.3. Phân theo các nhóm nghề: gồm 4 nhóm
- Làng nghề chuyên sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: gốm, sứ, dệt tơ tằm, chạm khắc gỗ, thuê ren...
- Làng nghề chuyên sản xuất các mặt hàng chuyên phục vụ cho sản xuất và đời sống như: rèn, mộc, nề, hàn, đúc gang, vật liệu xây dựng... phục vụ cho nghiên cứu.
- Làng nghề chuyên sản xuất các mặt hàng chuyên phục vụ cho nghiên cứu, tiêu dùng thông thường như: dệt vải, chiếu cói, làm nón, may mặc...
- Làng nghề chuyên chế biến lương thực thực phẩm: xay xát, làm bún, làm bánh, chế biến hải sản...
1.4.4. Phân theo trình độ kĩ thuật:
- Loại nghề có kĩ thuật đơn giản như: đan lát, chế biến lương thực, thực phẩm, làm gạch... Sản phẩm của những nghề này có tính chất thông dụng phù hợp với nền kinh tế tự cấp tự túc.
- Loại nghề có kĩ thuật phức tạp như: kim hoàn, đúc đồng, làm gốm, khảm gỗ, dệt lụa thêu thùa... Các nghề này không chỉ có kĩ thuật công nghệ phức tạp, mà còn đòi hỏi ở người thợ sự sáng tạo, khéo léo. Sản phẩm của nó vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá trị nghệ thuật cao.
Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác như:
+ Phân theo giá trị kinh tế
+ Phân theo dân tộc
+ Phân theo vùng (không gian)...
Mặt khác còn có các làng nghề chuyên sản xuất các sản phẩm cung cấp cho các cơ sở kinh doanh du lịch bán cho du khách và các làng nghề tổ chức cho các đoàn khách đến tham quan và bán sản phẩm tại chỗ.
1.5. PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ VÀ DU LỊCH LÀNG NGHỀ Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ VIỆT NAM:
1.5.1. Ở Trung Quốc:
Nghề thủ công truyền thống có từ lâu đời và nổi tiếng như đồ gốm, dệt vải, dệt tơ lụa, luyện kim, làm giấy... Sang đầu thế kỉ XX, Trung Quốc có 10 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp làm việc trong các hộ gia đình, trong phường nghề và làng nghề. Đến năm 1954, số người làm nghề tiểu thủ công nghiệp được tổ chức vào HTX, sau này phát triển thành xí nghiệp Hương Trấn và cho đến ngày nay vẫn tồn tại ở một số địa phương.
Xí nghiệp Hương Trấn là tên gọi chung của các xí nghiệp công thương, xây dựng... hoạt động ở khu vực nông thôn. Nó bắt đầu xuất hiện vào năm 1978, khi Trung Quốc bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa. Xí nghiệp Hương Trấn phát triển mạnh mẽ, đã góp phần đáng kể vào việc thay đổi bộ mặt nông thôn. Những năm 80, các xí nghiệp cá thể và làng nghề phát triển nhanh chóng đóng góp tích cực trong việc tạo ra 68 % giá trị sản lượng công nghiệp nông thôn và trong số 32 % sản lượng công nghiệp nông thôn do các xí nghiệp cá thể tạo ra có phần đóng góp đáng kể vào các làng nghề. Trong đó, hàng thủ công xuất khẩu, hàng thảm có vị trí đáng kể (chiếm 75 % hàng thảm ở thị trường Nhật).
Năm 1992, xí nghiệp Hương Trấn lại có bước phát triển lớn hơn. Theo thống kê bước đầu của các tỉnh ở Trung Quốc, so với năm 1991, giá trị sản phẩm công nghiệp tăng 4 %, đạt 1.250 tỉ NDT, tổng thu nhập do tiêu thụ hàng hóa và thu nhập nghiệp vụ khác xấp xỉ 1.500 tỉ NDT, tăng 38 %, số công nhân viên xí nghiệp Hương Trấn đạt trên 100 triệu, tăng trên 4 triệu người.
1.5.2. Ở Đài Loan:
CNH ở Đài Loan chú trọng cả công nghiệp và nông nghiệp, cả thành thị và nông thôn. Công nghiệp nông thôn bao gồm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp,
các làng nghề cổ truyền, các xí nghiệp gia đình sản xuất, chế biến lương thực, thực phẩm theo công nghệ cổ truyền và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ du lịch và xuất khẩu, các xí nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn sản xuất hàng tiêu dùng, vật tư kỹ thuật và tư liệu sản xuất cho nông nghiệp, sản xuất kinh doanh độc lập. Với cơ chế thoáng trong chính sách tự do kinh doanh, tự do thành lập doanh nghiệp của Đài Loan đã tạo cơ hội thuận lợi cho những người sản xuất có tài quản lý tập hợp những người thợ làng nghề phát triển sản xuất, đa dạng hóa thu nhập của ngành, đưa thu nhập phi nông nghiệp lên tới 90% còn nông nghiệp chỉ chiếm 10%.
1.5.3. Ở Nhật Bản:
Trong quá trình CNH, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp không bị mai một đi mà trái lại nó vẫn được duy trì và phát triển ở nông thôn, trong các hộ nông dân trong các làng nghề và thị trấn có nghề truyền thống.
Theo kết quả điều tra thống kê hiện nay Nhật Bản có 867 nghề thủ công khác nhau như chế biến lương thực, thực phẩm bằng nông sản, thủy sản, đan lát, gốm sứ, sơn mài, rèn…Vào thập kỷ 70 đã có phong trào “mỗi làng một sản phẩm” nhằm khôi phục phát triển ngành nghề truyền thống nông thôn, đã tạo ra 270 sản phẩm tiểu thủ công nghiệp tại các cơ sở sản xuất gia đình, thu nhập 1,2 tỷ USD (1992). Trong quá trình CNH – HĐH, Nhật Bản phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp nông thôn, đồng thời đầu tư về phát triển nông nghiệp về mọi mặt như thủy lợi hóa, hóa học hóa, điện khí hóa sản xuất, dịch vụ kinh tế kĩ thuật ở nông thôn hỗ trợ về: tín dụng, mua bán, giao thông liên lạc, bảo quản…kết quả là số hộ kinh tế vừa làm nông nghiệp vừa làm công nghiệp tăng lên từ 45,6% (1945) lên tới 88% (1990). Như vậy Nhật Bản phát triển ngành nghề nông thôn có tác động tích cực đến nông nghiệp, làm thay đổi cơ cấu lao động theo chiều hướng tăng số hộ kiêm, đồng thời làm thay đổi cơ cấu thu nhập theo hướng tăng thu nhập phi nông nghiệp, giải quyết việc làm cho cư dân nông thôn. Đây là vấn đề cần tìm hiểu và học tập đối với các nước nông nghiệp nói chung và Việt Nam nói riêng.
1.5.4. Ở Thái Lan:
Thái Lan có nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề. Các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như: chế tác vàng bạc, đá quý, đồ trang sức được duy trì và phát triển tạo ra nhiều hàng hóa xuất khẩu, đứng hàng thứ hai trên thế giới. Do kết hợp tay nghề của nghệ nhân tài hoa với công nghệ kĩ thuật tiên tiến, do đó sản phẩm làm ra đạt chất lượng cao, cạnh tranh được trên thế giới. Nghề gốm sứ cổ truyền của Thái Lan trước đây chỉ sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Những năm gần đây, ngành này phát triển theo hướng CNH – HĐH và trở thành mặt hàng xuất khẩu đứng thứ hai sau gạo, được thị trường Mỹ và Châu Âu ưa chuộng. Vùng gốm truyền thống ở Chiềng Mai được xây dựng thành trung tâm gốm quốc gia với ba mặt hàng là gốm truyền thống, gốm công nghiệp, gốm mới; gồm có 21 xí nghiệp chính và 72 xí nghiệp lân cận sản xuất. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, Thái Lan đã xúc tiến chương trình nâng cao tay nghề cho công nhân của 93 xí nghiệp ở Chiềng Mai và Lam Pang. Bên cạnh đó, nghề kim hoàn, chế tác ngọc, chế tạo đồ gỗ vẫn tiếp tục phát triển, tạo việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn.
Việc tổ chức lại các LNTT ở Thái Lan đã tạo ra giá trị nhiều mặt: bảo tồn và nâng cao kỹ năng tay nghề nghệ nhân, gìn giữ văn hóa truyền thống, tạo công ăn việc làm ở nông thôn ngăn chặn làn sóng di cư vào đô thị, tạo ra sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm du lịch.
Thái Lan có khoảng 70.000 làng nghề thủ công, nhưng vấn đề về chất lượng sản phẩm khiến sản phẩm thiếu sức thuyết phục với thị trường. Để khai thác kỹ năng của các LNTT ở miền bắc Thái Lan, tạo ra thêm thu nhập, giải quyết lao động địa phương, từ năm 2001, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện dự án OTOP (One Tambon One Product: mỗi làng nghề một sản phẩm). Đây là chương trình chiến lược từ sáng kiến của Cục xúc tiến xuất khẩu (DEP) thuộc Bộ Thương mại Thái Lan. Chính phủ hỗ trợ kết nối địa phương với toàn cầu, thông qua việc hỗ trợ tiêu chuẩn hóa sản phẩm, hoàn tất đóng gói, tiếp thị, tổ chức kênh phân phối ở hải ngoại. Doanh số các sản phẩm OTOP năm 2003 đạt 30,8 tỉ baht, tăng 13% so năm trước. Hiện nay ở Thái Lan có khoảng 36.000 mô hình OTOP, mỗi mô hình tập hợp từ 30 đến 3.000 thành viên tham gia. Sự phát triển OTOP đã giúp nghề thủ công truyền thống của Thái Lan