công nghệ tiên tiến nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, tạo ra thương hiệu có độ tin cậy và uy tín cao, đồng thời linh hoạt tiếp thị, vươn ra chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn và tiếp cận với những thị trường mới, mở rộng giao lưu với nhiều đối tác và phục vụ được nhiều đối tác và phục vụ được nhiều khách hàng trong nước và trên thế giới.
Mở cửa, hội nhập, các làng nghề có cơ hội giới thiệu sản phẩm của mình với khách nước ngoài. Theo thống kê, hiện hàng hóa của các làng nghề nước ta như thủ công mỹ nghệ, thêu ren, gốm sứ… đã có mặt ở hơn 100 quốc gia trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng. Nếu như năm 2004, kim ngạch xuất khẩu mới đạt 450 triệu USD, thì năm 2008 đã tăng lên hơn 776 triệu USD. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan trong tháng 4/2009, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ đạt được gần 14,07 triệu USD. Tính chung 4 tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt trên 58,30 triệu USD, tuy có giảm 19,3% so với cùng kì năm trước, nhưng lại tăng 23,3% so với kế hoạch năm đề ra.
Trong những năm gần đây, số hộ và cơ sở ngành nghề ở nông thôn đang tăng lên với tốc độ bình quân từ 8,8% - 9,8%/năm, kim ngạch xuất khẩu từ các làng nghề cũng không ngừng tăng lên.
Hội nhập kinh tế góp phần phát huy nội lực, sử dụng tốt ngoại lực để tăng trưởng nhanh và nâng cao chất lượng của sự phát triển, đặc biệt nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, dịch vụ nói riêng, trong đó phải kể đến ngành du lịch và thúc đẩy xóa đói, giảm nghèo.
Hội nhập giúp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam trên cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Bên cạnh đó còn tăng cường thu hút và tranh thủ tiếp nhận các nguồn lực bên ngoài, đặc biệt là thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài, dùng nguồn lực bên ngoài để nhân lên sức mạnh bên trong, dùng sức mạnh bên trong đủ để hấp dẫn và định hướng sự hoạt động của các nguồn lực bên ngoài. Bên cạnh phong cảnh thiên nhiên ưu đãi, những loại hình dịch vụ du lịch mang đậm đà bản sắc văn hóa các dân tộc của Việt Nam
trong đó phải kể đến du lịch làng nghề đã và đang hấp dẫn không chỉ đối với các du khách trong và ngoài nước mà còn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh trong và ngoài nước tạo được mối liên kết chặt chẽ thông qua mạng lưới thông tin liên lạc.
Hội nhập giúp các làng nghề, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch có nhiều điều kiện phát huy thế mạnh, thu hút đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rộng kinh doanh, để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Định hướng phát triển các làng nghề truyền thống ở tỉnh Trà Vinh phục vụ du lịch thời kỳ hội nhập - 2
- Phương Pháp Bản Đồ Và Hệ Thống Thông Tin Địa Lý (Gis):
- Tác Động Của Hội Nhập Đến Du Lịch Và Làng Nghề Phục Vụ Du Lịch:
- Phát Triển Làng Nghề Và Du Lịch Làng Nghề Ở Một Số Nước Và Việt Nam:
- Thực Trạng Phát Triển Các Làng Nghề Truyền Thống Của Tỉnh Trà Vinh.
- Các Điều Kiện Phát Triển Các Làng Nghề Truyền Thống Của Tỉnh Trà Vinh:
Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.
Bên cạnh những làng nghề đang loay hoay tìm hướng phát triển, vẫn có một số làng nghề từng bước phát triển và hội nhập khá tốt. Quy mô hoạt động của các làng nghề được mở rộng, khâu sản xuất được chuyên nghiệp hóa.
Lao động làng nghề được học hỏi, trao đổi kinh nghiệm nâng cao tay nghề góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Người lao động không chỉ là người sản xuất sản phẩm mà còn đóng vai trò là hướng dẫn viên du lịch của làng nghề.
Ngoài sự nỗ lực của bản thân, các cơ sở trong làng nghề còn được sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng trong việc xây dựng thương hiệu, tổ chức tập huấn, hội thảo… nâng cao chất lượng và thương hiệu của sản phẩm làng nghề.
Nhiều mặt hàng của làng nghề có sự thay đổi, phong phú về mẫu mã, chủng loại sản phẩm nên đời sống của người lao động trong làng nghề dần ổn định. Nhiều mặt hàng truyền thống của làng nghề được đưa đi tiêu thụ ở các tỉnh trong nước, trong khu vực và trên thế giới, sản phẩm của làng nghề được khách hàng ưa chuộng và đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch.
Hội nhập đã tạo điều kiện cho các dân tộc trao đổi, học tập, tiếp thu những giá trị, tinh hoa của nhau để làm phong phú cho nền văn hóa của dân tộc mình, đồng thời đẩy mạnh tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc trong nước và tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới.
1.1.9.2. Tác động tiêu cực:
Hội nhập kinh tế làm gia tăng khảng cách phát triển giữa các vùng kém phát triển với các trung tâm kinh tế trong một quốc gia. Ở nước ta, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế đã phát triển mạnh mẽ những trung tâm kinh tế, thương mại và dịch vụ tập trung ở các thành phố, các thị xã và các khu vực có điều kiện thuận lợi. Trong khi đó, những vùng sâu vùng xa nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số là nơi có nhiều khó khăn về điều kiện tự nhiên và xã hội, kinh tế chưa phát triển, trình độ dân trí thấp, hạn chế tiếp cận với nền kinh tế thị trường. Với xuất phát điểm thấp, đồng bào các dân tộc khó nắm bắt, tiếp thu thành quả khoa học và công nghệ cao để phát triển kinh tế - xã hội cũng như theo kịp sự phát triển nhanh của các trung tâm kinh tế, thương mại và dịch vụ khác trên cả nước.
Hội nhập kinh tế buộc các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh phải trực tiếp cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt. Mặc khác, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất trong nước còn thấp, việc chuẩn bị cho hội nhập kinh tế của chúng ta còn yếu cả về nhận thức tư tưởng, về hiểu biết các luật lệ, nguyên tắc có liên quan, còn thiếu kế hoạch tổng thể và rõ ràng của tiến trình hội nhập, hệ thống luật pháp còn bất cập, năng lực đội ngũ cán bộ còn non yếu.
Tác động của suy thoái kinh tế, các đơn đặt hàng của các cơ sở trong làng nghề giảm đi đáng kể, sản phẩm thiếu đầu ra, việc làm và thu nhập của người lao động giảm khiến cho đời sống của họ gặp rất nhiều khó khăn.
Giá cả nguyên vật liệu tăng mà sản phẩm làm ra tiêu thụ không mạnh, vì thế nhiều cơ sở sản xuất cầm chừng.
Các sản phẩm của làng nghề bị cạnh tranh bởi các sản phẩm nhập khẩu vì thế tiêu thụ ít, do đó ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề trong nước.
Song song với sự phát triển mạnh của các LNTT, số người mắc bệnh nghề nghiệp ở các làng nghề tăng. Phát triển kinh tế không gắn liền với bảo vệ môi trường và đảm bảo an toàn vệ sinh lao động là nguyên nhân gây bệnh tật cho người lao động trực tiếp và người dân sống trong khu vực làng nghề.
Hội nhập cho phép các dân tộc có nhiều cơ hội tiếp xúc với nhau hơn nên bước đầu đã hình thành nên những thói quen về sinh hoạt, tập tục, văn hóa... đó là nguyên nhân làm cho nền văn hóa của các dân tộc ngày càng mất dần đi bản sắc riêng.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA LÀNG NGHỀ:
1.2.1. Các làng nghề phát triển đa dạng về quy mô, cơ cấu ngành nghề và gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp, nông thôn:
Các LNTT ở nước ta đều ra đời và tách dần từ nông nghiệp. Ban đầu, người lao động ở nông thôn do nhu cầu việc làm và thu nhập đã làm nghề thủ công bên cạnh làm ruộng, nghề chính là làm ruộng, nghề phụ là nghề thủ công. Khi lực lượng sản xuất đã phát triển thì thủ công nghiệp tách ra thành ngành độc lập, vươn lên thành ngành sản xuất chính ở một số làng; song để đảm bảo cuộc sống, người dân bao giờ cũng làm thêm nghề nông hay buôn bán hoặc làm thêm nghề khác. Sự kết hợp đa nghề này thường thể hiện trong một làng hay trong từng gia đình bởi vì người thợ thủ công vốn là người nông dân tách ra làm nghề thủ công, từ đó nghề thủ công truyền thống ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nông dân, nông nghiệp và thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Về quy mô: đại bộ phận các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề có quy mô nhỏ. Bình quân mỗi hộ gia đình có khoảng vài ba chục triệu đồng. Do tính đặc thù của làng nghề là phát triển nhiều loại mô hình sản xuất, hình thức tổ chức của các đơn vị sản xuất cũng mang đậm sắc thái nông nghiệp, nông thôn như các hộ, tổ hợp tác, HTX… Trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định ấy, các hình thức tổ chức sản xuất của làng nghề cũng bắt đầu mang dáng vẻ, hình thức của sản xuất công nghiệp đô thị hoặc khu công nghiệp tập trung. Đó là các công ty, các doanh nghiệp ở nông thôn. Đặc biệt là những năm gần đây do nhu cầu của thị trường còn xuất hiện những nghề mới như chế biến nông sản, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng… đã hình thành nên những công ty.
Về cơ cấu ngành nghề: rất đa dạng và phong phú, đã có sự thay đổi thích ứng với cơ chế thị trường (ở các địa phương, tỉ lệ ngành nghề cũng khác nhau do nhu cầu tiêu thụ và tiêu dùng khác)
Các ngành nghề truyền thống gồm có:
+ Các nghề sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ
+ Các ngành nghề phục vụ cho sản xuất và đời sống
+ Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng tiêu dùng
+ Các ngành nghề chế biến lương thực thực phẩm.
1.2.2. Đặc điểm về trình độ kĩ thuật, công nghệ và lao động:
Kĩ thuật công nghệ của nghề thủ công mang nặng tính truyền thống. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản và cũng là bí quyết của các ngành nghề.
Sự phát triển của khoa học kĩ thuật và sản xuất trong các làng nghề đã có sự đan xen, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại, giữa công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại trên cơ sở tận dụng tiềm năng và lợi thế lao động của mỗi địa phương, đồng thời kết hợp tay nghề cao với công cụ cơ giới hóa, hiện đại hóa và áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất.
Trình độ công nghệ sản xuất đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng lao động của các làng nghề. Lao động của các làng nghề phần lớn là lao động thủ công có trình độ, kinh nghiệm, tay nghề tinh xảo, khéo léo, có đầu óc thẩm mỹ và đầy tính sáng tạo. Một đặc điểm nổi bật là những lao động này chủ yếu phân bố trong các hộ gia đình (chiếm tới 90%), chỉ còn 10% nằm ở các doanh nghiệp. Chính vì vậy, đã giải quyết được phần lớn lao động nông nhàn.
Trước đây, lao động làng nghề chủ yếu là thủ công, nhưng ngày nay các làng nghề đã ứng dụng ngày càng nhiều khoa học công nghệ mới vào sản xuất, nhất là trong lĩnh vực sản xuất gốm sứ, trong chế biến lương thực, thực phẩm….
1.2.3. Nguyên vật liệu của các làng nghề thường là tại chỗ:
Hầu hết các làng nghề được hình thành xuất phát từ có sẵn nguồn nguyên liệu tại chỗ, trên địa bàn địa phương. Một số ngành nghề còn có thể tận dụng cả những phế liệu, phế phẩm, phế thải trong công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt để làm nguyên liệu sản xuất. Đối với một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ, sơn mài, chạm khắc gỗ đá, vàng, bạc... có thể được khai thác từ các nguồn nguyên liệu tại chỗ, địa phương, trong nước, cũng có thể phải nhập khẩu từ nước ngoài, song không nhiều.
1.2.4. Sản phẩm của các làng nghề mang tính thuần túy, có tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc dân tộc:
Mỗi một sản phẩm là một tác phẩm văn hóa nghệ thuật và văn hóa tinh thần kết tinh trong văn hóa vật thể. Quá trình sản xuất tuân theo công nghệ truyền thống và thường nhạy bén với thị trường trong việc đổi mới mẫu mã, chất lượng và có điều kiện linh hoạt thay đổi hướng sản xuất. Nhờ bám sát thị trường, am hiểu thị hiếu nên các mặt hàng của làng nghề được cải tiến nhanh chóng và đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, sản phẩm của họ ngày càng chiếm ưu thế trên thị trường trong nước và quốc tế. Đây là nét nổi trội mang tính cách mới của làng nghề truyền thống. Mỗi một sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật, thể hiện rất rõ trên những bức chạm khảm bằng vàng bạc, thêu ren và những bộ gốm sứ cao cấp... Hơn nữa, các LNTT không chỉ đơn giản cung cấp tư liệu tiêu dùng mà còn là nơi trao đổi tư liệu sản xuất với nhau.
Các sản phẩm của LNTT đều là sự giao kết giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật của nghệ nhân, chính điều này đã tạo ra những đặc thù khác nhau của hàng thủ công truyền thống như tính riêng lẻ hơn tính đồng loạt; chiều sâu nhiều hơn chiều rộng, mang tính trường phái, gia tộc giữ bí quyết hơn là sự phổ cập, phổ biến rộng rãi; đầy chất trí tuệ trí thức lâu đời. Ngoài ra, việc sử dụng các sản phẩm này đồng thời phải thưởng thức tính nghệ thuật của nó.
Chính sự giao kết này đã tạo ra tính cá biệt và sắc thái riêng của mỗi làng nghề, nó giải thích tại sao làng nghề cụ thể này không có sản phẩm bằng làng nghề kia, nghệ nhân ở làng nghề này không thể thay thế bằng nghệ nhân làng nghề khác. Mặc dù ở các làng nghề ấy đều làm cùng một nghề và sản xuất ra cùng một loại sản phẩm.
Sản phẩm thủ công truyền thống Việt Nam bao giờ cũng phản ánh sâu sắc tư tưởng tình cảm và quan niệm thẩm mỹ của dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hóa Việt Nam. Từ những con rồng, phượng, lân, rùa... chạm trổ ở các đình chùa, hoa văn trên các trống đồng, cửu đỉnh, màu men và các họa tiết trên đồ gốm sứ đến những nét chấm phá trên các bức thêu... tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa
đựng ảnh hưởng văn hóa, tinh thần, quan niệm về nhân văn, tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt chúng ta. Chính yếu tố tài hoa đậm nét này của sản phẩm thủ công truyền thống đã tạo nên vị trí quan trọng của các sản phẩm này trên thương trường và giao lưu quốc tế.
1.2.5. Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề gắn với truyền thống hộ gia đình, qui mô nhỏ:
LNTT của nước ta bên cạnh nghề làm ruộng còn có những ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tồn tại lâu đời. Thời kì mới hình thành qui mô sản xuất các làng nghề chủ yếu là hộ gia đình (huyết thống) gắn với các phường nghề, hội nghề như: phường gốm, phường cược, phường đúc đồng…
Trong thời kì tập trung quan liêu bao cấp, làng nghề được gọi là “đội ngành nghề” của hợp tác xã như: đội gốm, đội mộc, đội nề…Nơi có đông thợ thủ công thì thành lập hợp tác xã thủ công nghiệp. Nhưng dần dần “đội ngành nghề” hay “HTX thủ công nghiệp” hoạt động kém hiệu quả, không tồn tại được.
Từ khi bước vào cơ chế mới, quan niệm sản xuất trở về quy mô truyền thống là hộ gia đình, đồng thời xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, các hình thức hợp tác và HTX kiểu mới… Trên cơ sở các hình thức sở hữu này, các doanh nghiệp, các HTX có bước phát triển và xã hội thừa nhận. Chính cơ chế mới đã tạo điều kiện thuân lợi để khuyến khích đa dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh LNTT. Tuy nhiên, trong những năm qua hình thức sản xuất kinh doanh theo hộ gia đình vẫn còn chiếm ưu thế ở các LNTT, có nơi lên tới 90 %.
Hiện nay, trong quá trình phát triển đi lên sản xuất cơ giới hóa, kế thừa và phát huy kinh nghiệm chuyển từ HTX thủ công nghiệp lên trình độ HTX tiểu công nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh trong LNTT đẩy mạnh trang bị cơ sở vật chất cho sản xuất. Tuy nhiên, trong quá trình vận động để phát triển, các hộ gia đình sẽ xảy ra nhiều vấn đề bất cập như: qui mô sản xuất không được mở rộng, không có điều kiện để đầu tư lớn cho sản xuất.
Những hình thức tổ chức kinh doanh trong làng nghề cũng tồn tại đan xen, hỗ trợ nhau phát triển. Sự đan xen này đã đảm bảo sự thích ứng của từng loại hình với
nhu cầu của người sản xuất và đặc trưng của ngành nghề, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế ở làng nghề trong điều kiện kinh tế thị trường.
1.2.6. Làng nghề là sự kết tinh giá trị văn hóa văn minh lâu đời của dân
tộc:
Từ xa xưa, người nước ngoài hiểu Việt Nam, quan hệ mật thiết với Việt Nam,
trước hết là từ yếu tố văn hóa. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta coi nhẹ các yếu tố khác. Một điểm nổi bật là những sản phẩm thủ công mỹ nghệ trong các làng nghề mang chất văn hóa dân tộc rất đậm đà và là những bảo vật vô giá. Trống đồng Ngọc Lũ; tượng phật nghìn mắt, nghìn tay; tranh sơn mài, tranh lụa; tranh dân gian khắc trên đá, trên gốm... Đó là những minh chứng cho đời sống sinh hoạt, cảnh quan thiên nhiên và phong tục tập quán của dân tộc ta qua từng thời kỳ lịch sử.
Các sản phẩm thủ công truyền thống Việt Nam vừa phản ánh những nét văn hóa chung của dân tộc, vừa có những nét riêng của làng nghề. Ngay cả người Việt Nam sống ở nước ngoài khi nhớ về quê hương là nhớ ngay đến dấu ấn đậm nét của mỗi làng nghề với bao sản phẩm độc đáo. Như vậy, LNTT không chỉ là những đơn vị kinh tế thực hiện mục tiêu sản xuất hàng tiêu dùng, và hàng xuất khẩu mà còn mang nét đặc sắc, biểu trưng của nền văn hóa dân tộc, văn hóa cộng đồng làng xã Việt Nam.
1.3. Ý NGHĨA CỦA LÀNG NGHỀ:
Từ khi mới hình thành các làng nghề đã có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất, sinh hoạt ở các vùng nông thôn. Qua hàng trăm năm phát triển các làng nghề đã có nhiều thay đổi nhưng làng nghề vẫn khẳng định được vai trò với sản xuất, đời sống của nhân dân địa phương cũng như với sự phát triển của đất nước.
Phát triển làng nghề là một giải pháp quan trọng để góp phần thực hiện CNH nông thôn, phát triển và nâng cao mức sống vật chất tinh thần của người dân ở cả miền đồng bằng và miền núi, dân tộc Kinh cũng như các dân tộc thiểu số, đẩy mạnh giao lưu kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa các vùng lãnh thổ, giữa các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.