Cũng nghiên cứu về mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, Killian và Hegtvedt (2003) đã chứng minh vai trò của hành vi văn hóa và quan hệ xã hội của cha mẹ có ảnh hưởng tới con cái ở người Việt Nam sống tại Atlanta. Khách thể nghiên cứu gồm 66 thanh niên Việt Nam là thế hệ thứ hai của người Việt Nam ở nước ngoài (tuổi từ 18 – 30, trung bình là 22,4 tuổi). “Hành vi văn hóa” được các tác giả thao tác hóa ở khía cạnh nói và đọc tiếng mẹ đẻ và quan hệ xã hội của cha mẹ được thể hiện ở việc tham gia các nhóm, mối quan hệ xã hội với người cùng dân tộc. Từ đó, các tác giả sử dụng bảng câu hỏi để đánh giá 3 khía cạnh: kỹ năng văn hóa, hệ thống xã hội cùng dân tộc và tự miêu tả bản sắc của trẻ. Ngoài ra, hành vi văn hóa và hệ thống quan hệ xã hội của cha và mẹ cũng được tìm hiểu nhằm làm rõ mối quan hệ của nó tới sự gắn bó với hành vi văn hóa định hướng dân tộc của trẻ. Kết quả nghiên cứu chỉ ra hành vi văn hóa của cha mẹ (nói và đọc) có ảnh hưởng tới kỹ năng văn hóa của trẻ, hệ thống quan hệ xã hội cùng chủng tộc của họ cũng khuyến khích các liên kết xã hội này ở trẻ. Hơn nữa, sự ảnh hưởng của cha mẹ là trực tiếp, người mẹ có ảnh hưởng nhiều hơn cha [80]. Tiếp tục hướng nghiên cứu ảnh hưởng của cha mẹ tới sự phát triển của trẻ, Hsin (2017) tiếp tục khẳng định vai trò của hành vi của cha mẹ trong việc học ngôn ngữ của trẻ. Các tác giả đã sử dụng phương pháp chọn mẫu quả bóng tuyết (snowball) để quan sát và phỏng vấn 4 bà mẹ và chồng họ sống tại New Taipei City, Taiwan. Kết quả của nghiên cứu này khẳng định: Trẻ học ngôn ngữ nói, chữ viết và tri thức văn hóa thông qua thực hành ngôn ngữ trong nhiều tính huống đa quốc gia như thăm Việt Nam, gọi điện về cho người thân, nghe nhạc Việt, đến các nhà hàng Việt cũng như tiếp xúc với bạn bè người Việt của mẹ. Hơn nữa, trẻ học ngôn ngữ qua công việc của cha mẹ, sở thích và trải nghiệm thực tế cũng như thông qua học các giá trị văn hóa Việt Nam [72].
Bên cạnh các nghiên cứu về mối quan hệ trong gia đình, ảnh hưởng của cha mẹ tới sự phát triển của con, khó khăn, áp lực, cũng như giải quyết các khó khăn đó cũng được các tác giả quan tâm nghiên cứu. Lee và đồng nhiệp (2009) đã phỏng vấn 17 trẻ em từ các nước châu Á gồm Ấn Độ, Campuchia, Trung Quốc, Indonesia, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam về những vấn đề sức khỏe
15
tâm thần như trạng thái hiện tại, những rào cản, khó khăn, các tiềm năng giải quyết. Kết quả nghiên cứu này chỉ ra các trẻ em gốc Á tham gia phỏng vấn bị stress từ áp lực từ kỳ vọng của cha mẹ trong học tập, định khuôn với người thiểu số, sự khó khăn trong cần bằng giữa hai nền văn hóa. Để giải quyết các khó khăn của mình, các khách thể trẻ tuổi thường tìm đến sự hỗ trợ cá nhân (như bạn thân, tôn giáo của cộng đồng) hơn là các hỗ trợ chuyên nghiệp trong xã hội sở tại [84].
Như vậy, ta có thể thấy các nghiên cứu đã làm rõ được quá trình thích nghi và tiếp biến văn hóa của của người nhập cư gốc Việt. Một mặt họ tích cực tiếp thu các giá trị văn hóa mới nhưng cũng đồng thời duy trì các giá trị gia đình truyền thống của họ thể hiện trong sự nỗ lực vươn lên trong công việc, học tập; vai trò vị thế của người già trong gia đình nhập cư vẫn được được khẳng định rõ nét. Quá trình tiếp thu các giá trị văn hóa mới cũng khiến các thế hệ trong gia đình có nhiều khác biệt, thậm chí là xung đột, ảnh hưởng đến các mối tương tác xã hội cũng như sự trưởng thành của trẻ. Tuy vậy, việc tiếp tục duy trì trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, sự điều chỉnh và tiếp thu các giá trị văn hóa của các thế hệ để hiểu rõ hơn về giá trị của các thành viên vẫn được khẳng định rõ nét. Điều đó cho thấy sự linh hoạt của người nhập cư gốc Việt trong quá trình sống và làm việc tại nước ngoài. Bên cạnh đó, cách thức người nhập cư gốc Việt đương đầu với khó khăn, học tập tại nước ngoài cũng được các tác giả đề cập.
Xem xét các nghiên cứu về giá trị gia đình của người nhập cư, tác giả luận án nhận thấy chúng thường được tiến hành so sánh giữa các thế hệ, các nhóm văn hóa khác nhau. Những so sánh này khẳng định trẻ nhập cư ít nhấn mạnh vào sự vâng lời, giá trị truyền thống như cha mẹ chúng [95], [121], nhóm cha mẹ lại khẳng định nhiều hơn bổn phận trong gia đình [92] dù họ vẫn hiểu được tầm quan trọng của chấp nhận định hướng giá trị ở cả hai nền văn hóa [47]. Bên cạnh đó, nhóm nhập cư, mà cụ thể là người Việt Nam nhập cư, cũng đồng thời được so sánh với nhóm người bản xứ hay các nhóm nhập cư khác để làm nổi bật lên bản sắc tâm lý dân tộc của họ [42], [46], [124]. Những nghiên cứu này đã khẳng định rõ nét bản sắc văn hóa không chỉ ở tầm vĩ mô mà thể hiện trong từng gia đình, từng mối quan hệ cụ thể. Trong thời đại toàn cầu hóa và các quốc gia có sự liên kết chặt chẽ với
16
nhau hiện nay, những tri thức về văn hóa, bản sắc văn hóa của các quốc gia, dân tộc, nhóm người là rất cần thiết, hữu ích trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa.
Ở khía cạnh phương pháp nghiên cứu, chúng ta thấy các nghiên cứu với khách thể là người nhập cư nói trên đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau nhằm có thể khai thác, hiểu được nhiều nhất đặc điểm tâm lý của họ. Sự đa dạng của phương pháp nghiên cứu liên quan tới sự đa dạng trong nội dung, chủ đề nghiên cứu về giá trị của các khách thể. Phương pháp đó có thể là cách tiếp cận dân tộc học, trong đó nhà nghiên cứu quan sát và phỏng vấn cả mẹ và trẻ trong thời gian dài để tìm hiểu về việc học tập ngôn ngữ của trẻ [72], phỏng vấn nhóm để tìm hiểu về vai trò của người cao tuổi tại xã hội sở tại [115]; phỏng vấn để tìm hiểu những khó khăn của người phụ nữ nhập cư bị lạm dụng tình dục [45], phỏng vấn sâu để khai thác những vấn đề liên quan đến khác biệt văn hóa trong nuôi dạy con [120], quan niệm về tình dục [114], [102]. Liên quan đến nhóm khách thể là người Việt Nam, Ramos và cộng sự (2016) đã phát triển thang đo có tên “Vietnamese Depression Interview” (VDI) nhằm tìm hiểu, đánh giá về tình trạng trầm cảm ở người nhập cư Việt Nam. Thang đo này xuất phát từ thực tế tỷ lệ cao (29%) người nhập cư gốc Việt có vấn đề về trầm cảm; mặc khác, người Việt Nam lại có những đặc điểm văn hóa, ngôn ngữ của riêng họ khiến cho việc sử dụng các thang đo tâm lý được phát triển ở nước ngoài đôi khi không cho kết quả chính xác. Dựa trên quá trình đo đạc độ hiệu lực và tin cậy của thang đo, Ramos và cộng sự đã cho ra đời thang đo VDI nhằm đánh giá về trầm của của người nhập cư gốc Việt [94]. Có thể nói, đây là thang đo đầu tiên được thiết kế để đo đạc, đánh giá tâm lý cho người nhập cư Việt Nam.
Từ những kết quả nghiên cứu này, chúng ta có thể thấy các nghiên cứu nói trên đã tiếp cận ở nhiều phương diện khác nhau, phản ánh sự đa dạng trong giá trị gia đình của người nhập cư, nhưng còn chưa tiếp cận các mối quan hệ gia đình một cách hệ thống, dựa trên hai mối quan hệ quan trọng nhất là cha mẹ - con và vợ - chồng. Chính vì vậy, một nghiên cứu sử dụng giá trị gia đình Việt Nam truyền thống thể hiện trong niềm tin và hành vi ứng xử giữa cha mẹ - con và giữa vợ với
Có thể bạn quan tâm!
- Định hướng giá trị gia đình của người Việt Nam sống tại Việt Nam và Ba Lan - 1
- Định hướng giá trị gia đình của người Việt Nam sống tại Việt Nam và Ba Lan - 2
- Nghiên Cứu Ở Nước Ngoài Về Giá Trị Gia Đình Và Định Hướng Giá Trị Gia Đình
- Nghiên Cứu Ở Việt Nam Về Giá Trị Gia Đình Và Định Hướng Giá Trị Gia
- Hướng Nghiên Cứu Về Giá Trị Và Định Hướng Giá Trị Gia Đình Thể Hiện Ở Các Mối Quan Hệ Trong Gia Đình
- Các Chiều Cạnh Văn Hóa Theo Lý Thuyết Của Schwartz
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
17
chồng sẽ góp phần làm rõ hơn giá trị gia đình của người Việt Nam trong quá trình thích nghi và tiếp biến văn hóa. Trong mối quan hệ vợ chồng, niềm tin và hành vi truyền thống luôn thể hiện ở sự chung thủy, hỗ trợ lẫn nhau, “của chồng công vợ”, “thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”…; trong mối quan hệ cha mẹ - con là niềm tin và hành vi liên quan đến sự chăm sóc của cha mẹ dành cho con cái, hi sinh vì con, bổn phận của con là phải hiếu thảo, chăm sóc cha mẹ khi về già, gia đình phải có con trai để nối dõi tông đường…
Mặt khác, các nghiên cứu nói trên chưa có những công trình nghiên cứu chọn mẫu và so sánh giá trị gia đình ở nhóm nhập cư và nhóm không nhập cư. Đây là hai nhóm có sự khác biệt rất rõ về môi trường văn hóa và giá trị sống. Chính vì vậy, niềm tin và hành vi thể hiện giá trị của họ trong các mối quan hệ gia đình sẽ có những khác biệt nhất định. Làm rõ được sự khác biệt đó, ở tầm lý luận, ta thấy được quá trình thích nghi và tiếp biến văn hóa của người nhập cư cũng như sự thay đổi trong đời sống văn hóa hàng ngày của họ; ở góc độ thực tiễn, ta có thể đưa ra những hiểu biết và cách thức ứng xử trong các mối quan hệ gia đình trong điều kiện giao thoa văn hóa ngày càng đa dạng và rộng mở hiện nay. Có thể nói, một nghiên cứu như vậy sẽ góp phần làm phong phú thêm bức tranh về giá trị gia đình của người Việt Nam ở cả trong và ngoài nước.
1.1.2. Các nghiên cứu về định hướng giá trị gia đình
a. Nghiên cứu làm rõ khái niệm định hướng giá trị gia đình
Costigan và cộng sự (2004) trong khi nghiên cứu về các mô hình tiếp biến văn hóa của người nhập cư tại Canada đã coi định hướng giá trị văn hóa là một trong ba lĩnh vực của tiếp biến văn hóa, gồm: định hướng văn hóa, bản sắc văn hóa và giá trị văn hóa. Trong đó, định hướng văn hóa thể hiện ở mức độ cá nhân gắn bó với nền văn hóa gốc của mình cũng như gắn bó với nền văn hóa nước sở tại. Nói cách khác, định hướng văn hóa thể hiện ở việc cá nhân người nhập cư hướng tới tiếp nhận và giữ gìn những giá trị văn hóa gốc của mình hay tìm kiếm, hướng đến nền văn hóa mới [51]. Cách tiếp cận này cung cấp cho ta cái nhìn chung về định hướng giá trị văn hóa để từ đó tiếp tục tìm hiểu rõ hơn định hướng giá trị gia đình ở từng nhóm khách thể cụ thể.
18
Trong khi nghiên cứu về giá trị gia đình truyền thống của người nhập cư, Dinh và đồng nghiệp (2019) [57] đã nêu lên một số đặc điểm trong định hướng giá trị gia đình ở các nước Đông Nam Á. Theo các tác giả, mặc dù các nước Đông Nam Á có một số khác biệt văn hóa như ngôn ngữ, trải nghiệm nhập cư, giá trị văn hóa… Tuy nhiên, họ có điểm chung là đều chịu ảnh hưởng của Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo. Những điểm chung này đã định hình nên các giá trị văn hóa truyền thống của họ như cấu trúc gia đình, tôn ti và vai trò của các thành viên trong gia đình cũng như ngoài xã hội (Min, 1995) (dẫn theo Dinh và cộng sự, 2019). Văn hóa gia đình ở các Đông Nam Á mang đặc điểm cấu trúc phụ hệ và tính thứ bậc. Vì vậy, giới tính, tuổi tác và thứ tự sinh của một người quyết định vai trò và quyền lực của họ trong gia đình. Người chồng có nhiều quyền lực hơn người vợ, con trai được ưu tiên hơn con gái; người con cả được coi là quan trọng nhất trong các con trong gia đình (Bankston và Hildalgo, 2006; Lee và Tapp, 2010) (dẫn theo Dinh và cộng sự, 2019).
Các tác giả Phinney, Ong và Madden (2000) trong khi nghiên cứu về định hướng giá trị văn hóa Việt Nam cũng cho rằng: tính tập thể (collectivism) được thể hiện bằng việc nhấn mạnh vào sự phụ thuộc lẫn nhau, hài hòa trong các mối quan hệ liên cá nhân, tuân thủ các chuẩn mực chung của nhóm. Tính tập thể được coi là đặc điểm văn hóa của những nhóm nhập cư như Việt Nam, Armenia và Mexico [92]. Trong khi nghiên cứu về định hướng giá trị trong gia đình Việt Nam, Rosenthal, Ranieri và Klimides (1996) cũng cho rằng, văn hóa Việt Nam vốn dựa trên nguồn gốc Phật và Nho giáo nên có tính tập thể mạnh mẽ; cấu trúc gia đình là điển hình của gia đình phụ hệ, trẻ em được kỳ vọng vâng lời cha mẹ và thực hiện các bổn phận trong gia đình. Khi trẻ lớn lên, chúng được kỳ vọng sẽ nghe theo cha mẹ trong các vấn đề như hôn nhân, lựa chọn công việc, mong muốn cá nhân phải đặt dưới nhu cầu của gia đình [56] [95]. Cũng chính vì vậy, trong khi nghiên cứu về người Việt Nam tại Mỹ, Nguyen và Williams (1989) cũng nhận thấy, người Việt Nam thể hiện uy quyền của cha mẹ nhiều hơn, ít chấp nhận việc con trẻ được tự chủ hơn so với nhóm nhập cư châu Âu tại Mỹ. Do đó, cùng với thời gian, cha mẹ nhập cư ít thay đổi các giá trị truyền thống trong khi con cái họ lại thay đổi một
cách mạnh mẽ hơn và điều này dễ dẫn đến sự khác biệt trong giá trị sống giữa các thế hệ gia đình nhập cư (dẫn theo Phinney, Ong và Madden, 2000).
Như vậy, kết quả của một số nghiên cứu nói trên đã khẳng định gia đình các nước Đông Nam Á nói chung luôn hướng đến tính tôn ti chặt chẽ, trong đó vai trò của người đàn ông, con trai cả trong gia đình luôn được đề cao, thứ tự sinh trong gia đình cũng có ý nghĩa nhất định. Sự khác biệt thế hệ có thể xuất hiện sau quá trình định hướng và tiếp thu các giá trị mới buộc gia đình nhập cư nói chung và gia đình Việt Nam nói riêng cũng phải điều chỉnh để phù hợp hơn trong quá trình sinh sống và làm việc tại nước ngoài.
Từ những nội dung này, có thể thấy các nghiên cứu trên phần nào làm rõ định hướng giá trị gia đình thể hiện ở thứ bậc tương đối chặt chẽ qua mối quan hệ vợ - chồng, quan hệ cha mẹ - con, quan hệ anh - chị - em, cũng như vai trò, vị trí của con trai, con gái trong gia đình. Trong đó, chồng có quyền hành hơn vợ; con trai được coi trọng hơn và có trách nhiệm với gia đình lâu dài hơn con gái, con trai cả có quyền hành và bổn phận với gia đình hơn những người con trai thứ. Đó là đóng góp có ý nghĩa trong việc định hướng cho luận án này về định hướng giá trị gia đình của người Việt Nam nói chung cũng như định hướng giá trị gia đình của người Việt Nam tại nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên, dường như những nghiên cứu này chưa dựa trên những mối quan hệ cơ bản trong gia đình (ví dụ mối quan hệ vợ và chồng, cha mẹ và con) để đưa ra cái nhìn toàn diện và đầy đủ hơn về giá trị gia đình truyền thống cũng như để làm rõ biểu hiện và thay đổi của nó ở người nhập cư. Nói cách khác, các tiếp cận đó thường tiếp cận giá trị gia đình truyền thống ở một khía cạnh nội dung cụ thể chứ chưa dựa trên những mối quan hệ cơ bản nhất trong gia đình người nhập cư. Vì vậy, những nội dung đã tổng quan ở trên đã đồng thời cho thấy một nghiên cứu sử dụng giá trị gia đình Việt Nam truyền thống thể hiện ở hai mối quan hệ cơ bản nhất trong gia đình là quan hệ vợ - chồng và cha mẹ
- con sẽ đóng góp cho những nội dung còn chưa được làm sáng tỏ như đã phân tích ở trên.
b. Định hướng giá trị gia đình từ góc nhìn so sánh
Từ góc nhìn Tâm lý học xuyên văn hóa, có thể thấy nghiên cứu về định hướng giá trị gia đình thường được tiến hành trong sự so sánh giữa các nhóm khác nhau nhằm làm nổi bật đặc điểm văn hóa cũng như quá trình tiếp thu, tiếp biến văn hóa của người nhập cư.
Đối với gia đình nhập cư, một số nghiên cứu đã khẳng định sự khác biệt giữa nhóm bố mẹ và con theo hướng trong khi cha mẹ muốn duy trì các giá trị gia đình truyền thống, thì con họ có xu hướng tiếp thu các giá trị và phong cách phương Tây (Boman và Edwards, 1984; Carlin, 1990; Haines, 1988; Nguyen và Williams, 1989; Williams và Westermeyer, 1983) (dẫn theo Dinh và cộng sự, 1994). Tương tự, một số nghiên cứu đã chỉ ra trẻ vị thành niên mong muốn được tự chủ nhiều hơn trong khi vẫn duy trì mối quan hệ gần gũi trong gia đình.
Đối với gia đình nhập cư người châu Á, bố mẹ có xu hướng giữ gìn các giá trị văn hóa gốc của họ như: các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau, hy sinh bản thân vì gia đình, luôn phải nỗ lực hoàn thiện mình thông qua giáo dục, làm việc chăm chỉ (Chao, 1995; Chao và Tseng, 2002; Yee và cộng sự, 2007) (dẫn theo Jessie Bee Kim Koh và cộng sự, 2009) [82]. Đi sâu hơn vào vấn đề này, các nghiên cứu còn cho thấy, mặc dù trong quá trình hội nhập văn hóa, bố mẹ nhập cư cũng tiếp thu các giá trị văn hóa của nước sở tại như sự độc lập, nhưng các giá trị cốt lỗi của Nho giáo kể trên vẫn được duy trì đáng kể ở các bậc cha mẹ nhập cư thế hệ đầu tiên (Chao, 1995; Lin và Fu, 1990) (dẫn theo Jessie Bee Kim Koh và cộng sự, 2009) [82].
Cũng đặt trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con trong gia đình nhập cư, Kim Koh và cộng sự (2009) đã tập trung làm rõ mối quan hệ giữa định hướng giá trị của cha mẹ và bản sắc cái tôi của trẻ thể hiện trong thành tích học tập cũng như các mối quan hệ xã hội. Nghiên cứu này đã lựa chọn trẻ ở gia đình nhập cư gốc Á (51 người Trung Quốc, 18 người Hàn Quốc) để tìm hiểu câu chuyện lịch sử về gia đình của họ. Theo đó, các sinh viên tham gia nghiên cứu được yêu cầu viết hai tiểu luận về lịch sử gia đình (family history) và tự phân tích bản thân mình (self- analysis). Kết quả cho thấy, việc bố mẹ nhập cư giữ gìn các giá trị Nho giáo như đánh giá
cao sự tự rèn luyện để hoàn thiện bản thân có mối quan hệ với bản sắc của con trong thành tích học tập cũng như trong các mối quan hệ xã hội [82]. Như vậy, kết quả của nghiên cứu này không chỉ dừng lại ở việc so sánh giữa các nhóm (cha mẹ - con) về định hướng giá trị, mà còn đi sâu tìm hiểu mối quan hệ giữa định hướng giá trị của nhóm cha mẹ và bản sắc cá nhân của con trẻ thể hiện trong thành tích học tập và các mối quan hệ xã hội.
Bên cạnh việc so sánh định hướng giá trị gia đình giữa cha mẹ và con, một số nghiên cứu quan tâm làm rõ sự khác biệt giữa nhóm nhập cư và không nhập cư. Năm 2014, Williams và cộng sự đã làm rõ quá trình lựa chọn và thay đổi định hướng giá trị ở người Nepal sống tại Nepal và người Nepal sống tại vùng Vịnh. Từ góc độ định hướng giá trị gia đình, kết quả nghiên cứu chỉ ra những xu hướng thay đổi có phần trái ngược nhau. Ví dụ, đối với vấn đề đàn ông và phụ nữ sống chung không qua hôn nhân, không có sự khác biệt giữa hai nhóm nhập cư và không nhập cư; trong khi đó, việc chấp nhận ly hôn lại có sự thay đổi lớn cùng với thời gian sống tại nước ngoài theo hướng nhóm có thời gian sống tại nước ngoài lâu hơn thì việc chấp nhận ly hôn cũng lớn hơn [116].
Xem xét các nghiên cứu về định hướng giá trị, chúng tôi nhận thấy, hầu hết các nghiên cứu thường tiến hành so sánh định hướng giá trị giữa các nhóm. Ngoài ra, sự thay đổi định hướng giá trị ở cùng một nhóm khách thể theo thời gian cũng được quan tâm tìm hiểu.
Bằng phương pháp nghiên cứu theo chiều dọc ở nhóm trẻ vị thành niên nhập cư gốc Mexico tại Mỹ, Updegraff và cộng sự (2012) đã tập trung làm rõ sự thay đổi định hướng giá trị văn hóa gia đình của trẻ khi 12 và 18 tuổi. Kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra sự thay đổi ở trẻ vị thành niên về thái độ với vai trò giới. Theo đó, trong khi trẻ gái cho thấy sự thay đổi theo hướng ít nhấn mạnh vào vai trò giới theo truyền thống, thì trẻ trai không có sự thay đổi đáng kể theo thời gian. Thêm vào đó, những trẻ thể hiện định hướng giá trị gia đình mạnh mẽ cũng đồng thời nhấn mạnh hơn vào trách nhiệm và bổn phận với gia đình mình. Nghiên cứu này đã chỉ ra khi ở độ tuổi 12, các em thể hiện định hướng giá trị gia đình cao thường có ít hành vi nguy hiểm hơn khi 18 tuổi [112].