Đặc Trưng Của Pháp Luật Về Định Giá Tài Sản Trí Tuệ

quyền sở hữu trí tuệ và quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ đã có quy định về việc xác định thiệt hại do các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, trong Nghị định này cũng không nói rõ việc xác định giá trị tài sản thiệt hại như thế nào. Do đó, tòa án không có căn cứ pháp lý để xác định mức bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm.

Những dẫn chứng trên đây cho thấy những rủi ro, tác động tiêu cực do việc thiếu các quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ mang lại. Chính tầm quan trọng của việc xác định giá trị tài sản trí tuệ đã dẫn đến nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động định giá tài sản trí tuệ như một tất yếu. Quy

điṇ h pháp luật về viêc

điṇ h giá tài sản trí tuê ̣rõ ràng rất cần thiết cho rất nhiều

đối tươn

g trong xã hôi

, không chỉ bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan

trong các giao dịch về tài sản trí tuệ, giúp doanh nghiệp xây dựng và quản trị tài sản trí tuệ mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định, xây dựng các chính sách khoa học và công nghệ, chính sách kinh tế, tài chính, đầu tư,… nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.

Vai trò của pháp luật về định giá tài sản trí tuệ:

- Giúp doanh nghiệp xác định được giá trị các tài sản trí tuệ của mình, xây dựng chiến lược quản trị tài sản trí tuệ, định hướng kế hoạch kinh doanh phù hợp, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

- Quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ là cơ sở pháp lý an toàn cũng như điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các giao dịch về tài sản trí tuệ, thúc đẩy sự phát triển của thị trường khoa học và công nghệ:

Chế định này vừa là cơ sở pháp lý vừa là căn cứ để thực hiện các hoạt động: chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản trí tuệ (xác định giá trị của tài sản trí tuệ được chuyển giao); sáp nhập và mua lại doanh nghiệp (xác định giá trị doanh nghiệp dựa vào tỷ trọng giá trị của các tài sản trí tuệ trong tổng giá trị thị trường của doanh nghiệp); góp vốn, đầu tư, liên doanh

Định giá tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam - 6

(xác định giá trị phần vốn là tài sản trí tuệ tương ứng); cổ phần hoá, phát hành cổ phiếu, vay vốn (xác định giá trị tài sản thực tế của doanh nghiệp); giải quyết tranh chấp (xác định giá trị thiệt hại)...

- Khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia:

Việc xác định giá trị các tài sản trí tuệ giúp bảo vệ quyền tác giả của các nhà khoa học, tạo ra nguồn thu nhập từ việc chuyển nhượng, li-xăng các quyền sở hữu trí tuệ, giúp các nhà khoa học có thu nhập từ chính các tài sản trí tuệ của mình, từ đó khuyến khích cũng như đảm bảo điều kiện để tiến hành hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.

- Bảo đảm sự phù hợp với pháp luật quốc tế về khai thác các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ, tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Ngoài ra, ở khía cạnh pháp lý, sự điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động định giá tài sản trí tuệ còn xuất phát từ nhu cầu hiện thực hóa các quyền hiến định. Hiến pháp năm 2013 quy định: mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó (Điều 40), nhà nước tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động khoa học và công nghệ (Điều 62). Để có thể hưởng lợi ích từ hoạt động nghiên cứu, sáng tạo thì tài sản trí tuệ hình thành từ các hoạt động đó phải được định giá, là cơ sở để thực hiện các hoạt động chuyển nhượng, chuyển giao, ứng dụng tài sản trí tuệ vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Tóm lại, pháp luật là công cụ để phục vụ và định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Việc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động định giá tài sản trí tuệ là cần thiết và không thể thiếu đối với sự phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.

1.3.2. Đặc trưng của pháp luật về định giá tài sản trí tuệ

Pháp luật về định giá tài sản trí tuệ mang những đặc trưng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, pháp luật về định giá tài sản trí tuệ là một nội dung quan trọng trong các chế định pháp luật về các khía cạnh thương mại của tài sản trí tuệ.

Do có khả năng sinh lợi, tài sản trí tuệ và các quan hệ tài sản liên quan tới giá trị của tài sản trí tuệ là đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của các chế định liên quan tới các khía cạnh kinh tế của tài sản vô hình, trong đó đặc biệt là các luật về tài chính, doanh nghiệp, đầu tư,… Định giá tài sản trí tuệ nhằm mục đích là đưa ra giá của tài sản trí tuệ làm cơ sở thực hiện các hoạt động giao dịch mua và bán công nghệ, góp vốn liên doanh, định giá doanh nghiệp phục vụ mục đích quản lý và tái cơ cấu doanh nghiệp,… Vì vậy, các quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ giúp xác định và kiểm soát giá trị tài sản trí tuệ trong các hoạt động đầu tư, kinh doanh đóng vai trò nền tảng trong các chế định pháp luật điều chỉnh các khía cạnh thương mại của tài sản trí tuệ.

Thứ hai, do tài sản trí tuệ chịu sự quản lý nhà nước của nhiều bộ, ngành khác nhau nên các quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ được ban hành bởi nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hệ quả là một số quy định về định giá tài sản trí tuệ có sự mâu thuẫn hoặc chồng chéo.

1.3.3. Nội dung cơ bản của pháp luật định giá tài sản trí tuệ

Định giá tài sản trí tuệ là một vấn đề phức tạp và còn khá mới ở Việt Nam. Pháp luật hiện hành điều chỉnh lĩnh vực này chưa được pháp điển hóa mà nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, dàn trải trên các lĩnh vực doanh nghiệp, tài chính, khoa học và công nghệ,… Với tính chất là một chế định kiểm soát giá trị của tài sản trí tuệ, pháp luật về định giá tài sản trí tuệ đã quy định các vấn đề cơ bản trong hoạt động định giá tài sản trí tuệ, bước đầu tạo lập cơ sở pháp lý để điều chỉnh hoạt động định giá tài sản trí tuệ như: khi nào phải định giá, định giá như thế nào, ai định giá.

Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về định giá tài sản trí tuệ, bao gồm:

- Nhóm quy định pháp luật về các trường hợp định giá tài sản trí tuệ:

Trên thực tiễn, có rất nhiều lý do dẫn đến nhu cầu xác định giá trị tài sản trí tuệ. Vì vậy, pháp luật hiện hành quy định về các trường hợp cần định giá tài sản trí tuệ cũng khá phong phú, bao gồm: xác định giá trị tài sản góp vốn, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp trên bảng cân đối kế toán, xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa, xác định giá trị tài sản trí tuệ thuộc sở hữu nhà nước khi giao quyền sở hữu. Các trường hợp định giá tài sản trí tuệ trên quy định tại các văn bản pháp luật về thành lập doanh nghiệp, các chuẩn mực kế toán, các văn bản quy định về cổ phần hóa doanh nghiệp, các văn bản pháp luật về khoa học và công nghệ. Mỗi trường hợp định giá lại có quy định riêng về các phương pháp xác định giá trị tài sản trí tuệ và các đối tượng tài sản trí tuệ được định giá.

- Nhóm quy định pháp luật về các phương pháp định giá tài sản trí tuệ:

Các phương pháp định giá tài sản trí tuệ được quy định ở hệ thống các tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam. Tiêu chuẩn thẩm định giá số 13 về thẩm định giá tài sản vô hình đã nêu ra các cách tiếp cận trong việc xác định giá trị tài sản trí tuệ, bao gồm: cách tiếp cận từ chi phí, cách tiếp cận từ thị trường và cách tiếp cận từ thu nhập. Mỗi cách tiếp cận lại bao gồm nhiều phương pháp định giá. Tùy thuộc vào đặc điểm của đối tượng tài sản định giá, mục đích định giá mà chủ thể định giá có thể lựa chọn phương pháp định giá phù hợp.

- Nhóm quy định pháp luật về tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ định giá tài sản trí tuệ:

Dịch vụ định giá tài sản trí tuệ là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện ở Việt Nam. Tổ chức, cá nhân muốn cung ứng dịch vụ định giá tài sản trí tuệ phải tuân thủ các điều kiện về thành lập và hoạt động quy định tại các văn

bản pháp luật trong các lĩnh vực thẩm định giá và khoa học và công nghệ. Có hai mô hình tổ chức định giá tài sản trí tuệ: doanh nghiệp thẩm định giá theo quy định của pháp luật về thẩm định giá và trung tâm hỗ trợ định giá tài sản trí tuệ theo quy định pháp luật về tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ. Tùy thuộc vào mô hình hoạt động (là doanh nghiệp hay tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ), tổ chức định giá tài sản trí tuệ phải đáp ứng các điều kiện hoạt động khác nhau. Pháp luật cũng quy định rõ điều kiện hành nghề đối với các thẩm định viên về giá và những quy tắc đạo đức hành nghề trong quá trình thẩm định giá tài sản. Các quy định này đã tạo lập cơ sở pháp lý cho việc phát triển loại hình dịch vụ định giá tài sản trí tuệ ở Việt Nam.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1 tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về tài sản trí tuệ, định giá tài sản trí tuệ và pháp luật về định giá tài sản trí tuệ. Dựa trên vai trò quan trọng của tài sản trí tuệ đối với sự phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế, Chương 1 đã minh chứng được sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động định giá tài sản trí tuệ và khái quát hóa nội dung cơ bản của pháp luật về định giá tài sản trí tuệ. Đây chính là tiền đề cho việc đánh giá những thành công và hạn chế của pháp luật hiện hành về định giá tài sản trí tuệ ở chương tiếp theo.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRÍ TUỆ


2.1. Nội dung của pháp luật Việt Nam hiện hành về định giá tài sản trí tuệ

2.1.1. Quy định pháp luật về các trường hợp định giá tài sản trí tuệ

Để khai thác các giá trị của tài sản trí tuệ, pháp luật hiện hành đã có những quy định về các trường hợp cần định giá tài sản trí tuệ, bao gồm:

(1). Định giá tài sản trí tuệ để góp vốn thành lập doanh nghiệp

Ở Việt Nam, việc sử dụng tài sản trí tuệ để góp vốn thành lập doanh nghiệp đã được quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2005. Theo Khoản 4, Điều 4: “Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty…” [39, Điều 4]. Luật Doanh nghiệp năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015, tiếp tục quy định về tài sản góp vốn và nguyên tắc định giá tài sản góp vốn tại các Điều 35, 36, 37. Theo đó, tài sản góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu đối với các quyền nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn.

Việc xác định giá trị tài sản góp vốn là vấn đề hệ trọng vì nó liên quan đến lợi ích của nhiều bên: doanh nghiệp, chủ sở hữu, chủ nợ,… Khi được sử dụng để góp vốn thành lập doanh nghiệp, tài sản trí tuệ phải được các thành viên, cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí; trường hợp giao cho tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản trí tuệ phải

được đa số các thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận. Tài sản trí tuệ góp vốn trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, do chủ sở hữu, hội đồng thành viên (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh), hội đồng quản trị (đối với công ty cổ phần) và người góp vốn thỏa thuận định giá hoặc do tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Quy định về việc định giá tài sản góp vốn của tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp là phù hợp với thực tiễn, bởi vì việc định giá tài sản trí tuệ là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi người tiến hành định giá phải có trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm trong việc định giá. Việc định giá tài sản trí tuệ phải tuân thủ nguyên tắc nhất trí giữa các bên liên quan đến việc góp vốn là hợp lý bởi vấn đề vốn góp quyết định đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ sở hữu tại công ty, quyết định đến hiệu quả sử dụng tài sản, rủi ro và lợi nhuận của công ty sau này. Quy định này cũng đảm bảo nguyên tắc tự do hợp đồng khi thành lập công ty.

Ở Việt Nam, việc góp vốn, liên doanh bằng tài sản trí tuệ (chủ yếu là góp vốn bằng thương hiệu) đã diễn ra từ những năm 1990, khi các tập đoàn đa quốc gia tiếp cận thị trường Việt Nam thông qua việc liên doanh, liên kết, mua bán, sáp nhập với các doanh nghiệp trong nước. Thực tiễn trong hoạt động liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài cho thấy doanh nghiệp Việt thường chỉ chú ý vào giá trị quyền sử dụng đất và các tài sản hữu hình mà chưa chú ý đến các tài sản vô hình như tài sản trí tuệ. Tuy nhiên, cũng đã có một số trường hợp liên doanh đã xác định được giá trị của nhãn hiệu, đó là trường hợp công ty bia Việt Hà, khi góp vốn liên doanh với nước ngoài đã tính được giá trị của nhãn bia Halida là 550.000 USD. Còn trường hợp công ty P/S tính được giá trị nhãn hiệu là 5,3 triệu USD, nhãn hiệu bia Sài Gòn của công ty Bia Sài Gòn được tính trị giá góp vốn vào liên doanh ở Nghệ An là 9,5 triệu USD,… Mặc dù, theo một số chuyên gia giá trị các đối tượng tài sản trí tuê ̣nêu trên có th ể còn ở mức cao

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 05/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí