Một Số Bất Cập Của Pháp Luật Về Định Giá Tài Sản Trí Tuệ

Trung tâm hỗ trợ định giá tài sản trí tuệ phải đăng ký hoạt động tại cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ (Sở Khoa học và Công nghệ) và được cấp giấy đăng ký hoạt động tổ chức trung gian khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên.

Như vậy, tùy thuộc vào mô hình hoạt động (là doanh nghiệp hay tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ), tổ chức định giá tài sản trí tuệ phải đáp ứng các điều kiện hoạt động khác nhau. Định giá tài sản trí tuệ là một hoạt động phức tạp, đòi hỏi người thực hiện định giá phải có trình độ chuyên môn và sự am hiểu kiến thức nhiều lĩnh vực về giá, về khoa học công nghệ, sở hữu trí tuệ,… và các lĩnh vực cụ thể mà tài sản trí tuệ được áp dụng. Kết quả định giá có vai trò quyết định rất lớn tới sự thành công của các giao dịch về tài sản trí tuệ. Chính vì vậy, pháp luật đã quy định rất cụ thể và chặt chẽ các điều kiện để kinh doanh dịch vụ định giá tài sản trí tuệ nhằm đảm bảo năng lực của đội ngũ cán bộ thực hiện định giá tài sản trí tuệ, làm cơ sở cho việc phát triển loại hình dịch vụ này ở Việt Nam.

Với các quy định về các trường hợp định giá, phương pháp định giá và tổ chức cá nhân cung ứng dịch vụ định giá tài sản trí tuệ, pháp luật hiện hành đã từng bước tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các giao dịch về tài sản trí tuệ.

2.2. Một số bất cập của pháp luật về định giá tài sản trí tuệ

2.2.1. Các văn bản pháp luật còn thiếu nhất quán trong cách hiểu về cụm từ “tài sản trí tuệ”

Bộ luật Dân sự năm 1995 là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam (tại phần thứ VI). Các đối tượng tài sản trí tuệ được quy định tại Bộ luật bao gồm:

- Các đối tượng quyền tác giả: tác phẩm văn học, nghê ̣thuâṭ, khoa hoc̣ ;

- Các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp: sáng chế, giải pháp hữu ích,

kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá và các đối tượng khác do pháp luật quy định.

Sau Bộ luật này, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã tiếp tục bổ sung và hoàn thiện hơn các quy định về các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, Chuẩn mực kế toán số 04 về tài sản cố định vô hình được ban hành vào năm 2001 lại sử dụng các thuật ngữ không chính xác so với quy định của Bộ luật Dân sự 1995 cũng như quy định của pháp luật quốc tế về các loại tài sản trí tuệ như: phần mềm máy tính, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hoá. Thứ nhất, thuật ngữ “bằng sáng chế” hay chính xác hơn là “bằng độc quyền sáng chế” dùng để chỉ văn bằng bảo hộ ghi nhận các thông tin về chủ sở hữu sáng chế, tên tác giả, đối tượng bảo hộ, phạm vi bảo hộ và thời hạn bảo hộ nên “bằng độc quyền sáng chế” không phải là một tài sản trí tuệ và cũng không là tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp. Những “sáng chế” được pháp luật bảo hộ mới là tài sản cố định vô hình chứ không phải là văn bằng bảo hộ ghi nhận những thông tin liên quan đến sáng chế được bảo hộ. Bên cạnh đó, tài sản trí tuệ là sáng chế

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

lại chỉ được giới hạn là “bằng sáng chế”, như vây

nếu đươc

Định giá tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam - 9

bảo hô ̣dưới hình

thứ c là giải pháp hữu ích hoăc chưa đăng ký bảo hô ̣sáng chê,́ doanh nghiêp se

khó có cơ sở để tính toán giá trị của các tài sản này.

Thứ hai, theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, phát minh không phải là đối tượng được bảo hộ và không được công nhận là tài sản trí tuệ. Do đó, Chuẩn mực kế toán liệt kê ra đối tượng “bằng phát minh” không chính xác, trái với không chỉ quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam mà còn trái với thông lệ quốc tế về sở hữu trí tuệ. Chuẩn mực kế toán cũng liệt kê không đầy đủ các loại tài sản trí tuệ so với quy định của Bộ luật dân sự 1995.

Sự thiếu nhất quán này sẽ dân

đến nguy cơ “bỏ qua” môt

số đối tươn

g tài sản

trí tuệ khi hạch toán ghi sổ và định giá doanh nghiệp theo các nguyên tắc kế toán hiện hành.

Thông tư số 45/2013/TT-BTC ngày 25/4/2013 hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định khi liệt kê các đối tượng tài sản cố định vô hình đã sử dụng các thuật ngữ như: “bằng sáng chế phát minh”,“chương trình phần mềm”. Tuy nhiên, trong Luật sở hữu trí tuệ lại không tồn tại các thuật ngữ này mà chỉ sử dụng thuật ngữ: “bằng độc quyền sáng chế”, “chương trình máy tính”. Điều đáng nói là Thông tư này được ban hành sau khi ban hành Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009 mà vẫn không sử dụng đúng các thuật ngữ được sử dụng trong Luật Sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, Thông tư đã sử dụng thuật ngữ “giống cây trồng” “vật liệu nhân giống” để chỉ các đối tượng của quyền đối với giống cây trồng là chưa chuẩn xác theo như quy định của Luật Sở hữu trí tuệ vì đối tượng của quyền đối với giống cây trồng là“vật liệu nhân giống” “vật liệu thu hoạch”.

Trong các văn bản pháp luật quy định về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định dựa trên cơ

sở giá trị thương hiệu (bao gồm nhan hiêụ , tên thương maị ) và tiềm năng phát

triển. Tuy nhiên, Luật Sở hữu trí tuệ lại không sử dụng thuật ngữ “thương

hiệu”. Viêc

thiếu nhất quán trong sử dun

g các thu ật ngữ dân

đến cách hi ểu và

cách xác định khác nhau về loại tài sản là đối tượng định giá.

2.2.2. Các quy định pháp luật còn mâu thuẫn khi quy định phân loại tài sản trí tuệ thành tài sản cố định vô hình để định giá và tính vào giá trị doanh nghiệp

Theo Chuẩn mực kế toán số 04, chỉ một số đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ được coi là tài sản cố định vô hình như sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu (trong trường hợp nhãn hiệu đó không phải được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp như nhãn hiệu đó được mua lại). Tuy nhiên, Thông tư số 45/2013/TT- BTC, Khoản 2, Điều 4 quy định tất cả các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây

trồng) đều được coi là tài sản cố định vô hình và từ đó là cơ sở để định giá và tính vào giá trị doanh nghiệp.

Điểm b, Khoản 1 Điều 6 của Thông tư số 45/2013/TT-BTC coi chỉ dẫn địa lý là một loại tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp, là mâu thuẫn với quy định tại Khoản 4, Điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ: “chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà nước”. Do đó, không thể coi chỉ dẫn địa lý là một loại tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp.

Thương hiệu có được coi là tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp hay không vẫn còn mâu thuẫn. Theo Thông tư số 127/2014/TT-BTC, giá trị thương hiệu (bao gồm nhãn hiệu và tên thương mại) được tính vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa. Tuy nhiên, trong Chuẩn mực kế toán số 04 lại không quy định thương hiệu là tài sản cố định để được định giá và tính vào giá trị doanh nghiệp.

2.2.3. Quy định về phương pháp định giá còn thiếu nhất quán

Tiêu chuẩn thẩm định giá số 13 quy định về các phương pháp xác định giá trị tài sản trí tuệ trong cách tiếp cận từ chi phí bao gồm phương pháp chi phí tái tạo và phương pháp chi phí thay thế. Tuy nhiên, theo quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành về kế toán hay cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, giá trị tài sản trí tuệ chủ yếu được tính bằng phương pháp chi phí mang tính lịch sử (chi phí quá khứ). Giá trị của tài sản trí tuệ được xác định bằng tổng chi phí cho việc phát triển cộng với chi phí xác lập quyền và chi phí cho việc duy trì hiệu lực độc quyền đối với tài sản trí tuệ đó, chẳng hạn giá trị bản quyền, bằng sáng chế là toàn bộ các chi phí thực tế đã chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế; giá trị nhãn hiệu là các chi phí thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu; giá trị thương hiệu bao gồm các chi phí thực tế cho việc “sáng chế, xây dựng và bảo vệ nhãn mác, tên thương mại” của doanh nghiệp.

Theo quy định tại Chuẩn mực kế toán số 04, các chi phí như: chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí đào tạo nhân viên và chi phí quảng cáo phát sinh trong giai đoạn trước hoạt động của doanh nghiệp mới thành lập, chi phí cho giai đoạn nghiên cứu,… không được tính vào khi xác định giá trị tài sản trí tuệ. Trong khi đó, theo quy định của Thông tư số 127/2014/TT-BTC, giá trị thương hiệu của doanh nghiệp cổ phần hóa được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm: chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo, tuyên truyền trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, giới thiệu công ty; xây dựng trang web....

Sự mâu thuẫn trong việc xác định các loại chi phí khi tiến hành định giá giữa các văn bản pháp luật nói trên tạo cách hiểu và cách áp dụng không thống nhất trong việc vận dụng phương pháp chi phí để định giá tài sản trí tuệ của doanh nghiệp trong suốt quá trình kinh doanh.

2.2.4. Thiếu các quy định về định giá tài sản trí tuệ khi thực hiện góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ

Ở Việt Nam, việc góp vốn, liên doanh bằng tài sản trí tuệ (chủ yếu là góp vốn bằng thương hiệu) diễn ra khá sôi động, đi trước các quy định của pháp luật. Từ những năm 1990, các tập đoàn đa quốc gia đã tiếp cận thị trường Việt Nam thông qua việc liên doanh, liên kết, mua bán, sáp nhập với các doanh nghiệp trong nước. Thực tiễn trong hoạt động liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài cho thấy doanh nghiệp Việt thường chỉ chú ý vào giá trị quyền sử dụng đất và các tài sản hữu hình mà chưa chú ý đến các tài sản vô hình như tài sản trí tuệ. Tuy nhiên, cũng đã có một số trường hợp liên doanh đã xác định được giá trị của nhãn hiệu, đó là trường hợp công ty bia Việt Hà, khi góp vốn liên doanh với nước ngoài đã tính được giá trị của nhãn bia Halida là 550.000 USD, nhãn hiệu bia

Sài Gòn của công ty Bia Sài Gòn được tính trị giá góp vốn vào liên doanh ở Nghệ An là 9,5 triệu USD,… Mặc dù, theo một số chuyên gia giá trị các đối

tượng tài sản trí tuê ̣nêu trên có th ể còn ở mức cao hơn và có thể dùng nhiều lần để góp vốn kinh doanh.

Góp vốn, liên doanh bằng tài sản trí tuệ chính thức được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2005. Theo đó, quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác) được coi là một loại tài sản góp vốn và phải được định giá khi góp vốn.Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ. Chính vì vậy, trên thực tiễn hoạt động góp vốn bằng tài sản trí tuệ hiện nay đang diễn ra một cách ồ ạt, nhưng lại không dựa vào tiêu chuẩn nào mà tùy nơi quyết định.

Nhiều năm nay, các tập đoàn, tổng công ty như Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam (Vinaconex), Sông Đà, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin),... đã sử dụng nhãn hiệu để góp vốn liên doanh liên kết, coi như tương đương với tiền thật. Theo báo cáo của Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam, tính đến 31/12/2007, Tập đoàn này đã sử dụng thương hiệu (nhãn hiệu, tên thương mại) để góp vốn vào 103 công ty cổ phần, liên doanh với giá trị quy ra tiền tới 2.067 tỷ đồng, tính bằng 30% tổng vốn điều lệ doanh nghiệp nhận góp vốn [13]. Sau khi Bộ Tài chính có công văn số 2349/BTC-TCDN ngày 25/2/2010 hướng dẫn thực hiện thí điểm góp vốn bằng quyền sử dụng nhãn hiệu đối với tập đoàn, Vinashin đã đề nghị giữ lại việc góp vốn bằng thương hiệu tại 13 doanh nghiệp, số còn lại sẽ thực hiện thoái vốn [49]. Tuy nhiên, việc rút vốn của Tập đoàn cũng gặp phải vướng mắc vì phần vốn góp bằng thương hiệu của Vinashin tại các công ty cổ phần đã nằm trong vốn điều lệ đăng ký theo quy định. Theo quy định của Nghị

định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp, vốn điều lệ của công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá số cổ phần đã phát hành, tức là số cổ phần mà các cổ đông đã thanh toán đủ cho công ty, không bao gồm số cổ phần mà công ty có quyền phát hành. Tại khoản 9 Điều 23 Nghị định quy định:

Sau 03 năm, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu, nếu số cổ phần được quyền phát hành quy định tại khoản 4 Điều 84 của Luật Doanh nghiệp không được bán hết, công ty phải đăng ký điều chỉnh giảm số vốn được quyền phát hành ngang bằng với số cổ phần đã phát hành. Công ty cổ phần không được tăng số cổ phần được quyền phát hành khi số cổ phần hiện có chưa được bán hết.

Số cổ phần được quyền phát hành quy định tại khoản 4 Điều 84 Luật Doanh nghiệp là số cổ phần được quyền phát hành mà cổ đông sáng lập không đăng ký mua hết. Như vậy, một mặt Nghị định 102/2010/NĐ-CP quy định vốn điều lệ của công ty cổ phần không bao gồm giá trị số cổ phần được quyền chào bán, mặt khác lại cho phép công ty giảm vốn điều lệ khi số cổ phần được quyền chào bán trong 03 năm mà không bán hết. Theo các quy định này, công ty cổ phần có thể giảm vốn điều lệ, nhưng điều đó chắc chắn sẽ không xảy ra. Luật Doanh nghiệp 2014 đã khắc phục hạn chế này khi đưa ra các quy định về trường hợp giảm vốn điều lệ của công ty cổ phần. Sau thời hạn quy định, nếu có cổ đông chưa thanh toán hoặc chỉ thanh toán được một phần số cổ phần đã đăng ký mua khi đăng ký thành lập doanh nghiệp thì công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị mệnh giá số cổ phần đã được thanh toán đủ (Điều 112). Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần cũng có thể điều chỉnh giảm vốn bằng cách hoàn trả một phần vốn góp trong vốn điều lệ của công ty theo các điều kiện quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014.

Tại Tổng công ty Sông Đà, thương hiệu Sông Đà được sử dụng để góp vốn vào các công ty con với giá trị vốn góp khác nhau. Cụ thể: theo báo cáo kiểm toán năm 2007 khoản góp vốn bằng thương hiệu của Tổng công ty Sông Đà tại Công ty cổ phần Sông Đà 909 là 250 triệu đồng, khấu hao lũy kế đến hết năm 2007 là 28 triệu đồng; trong khi đó tại Công ty cổ phần Sông Đà 10 là 4,93 tỷ đồng, khấu hao luỹ kế đến hết 2007 là 1,214 tỷ đồng. Từ năm 2009, tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã quy định chi phí sử dụng nhãn hiệu của tập đoàn ít nhất 1 tỉ đồng mỗi năm, và đã có khoảng 70 công ty đã ký hợp đồng nhận “vốn góp” như vậy. Chẳng hạn, báo cáo sáu tháng đầu năm của công ty cổ phần kinh doanh dịch vụ cao cấp Dầu khí Việt Nam (PVCR) cho thấy công ty phải trả trước dài hạn 846 triệu đồng chi phí sử dụng thương hiệu và hình ảnh PVN. Tính đến cuối năm 2011, chi phí phải trả cho việc sử dụng này là gần 1,5 tỉ đồng.

Qua các dẫn chứng trên đây có thể thấy rằng, việc định giá tài sản trí tuệ khi góp vốn là một vấn đề phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro mà pháp luật lại chưa có các quy định để hạn chế những rủi ro đó. Do chưa có văn bản nào quy định riêng về việc góp vốn bằng tài sản trí tuệ nên việc góp vốn thường được lập hợp đồng như các loại hợp đồng góp vốn thông thường. Các bên sẽ xác định giá trị nhãn hiệu theo thỏa thuận và theo đó lập hợp đồng góp vốn, trong đó quy định rõ tỷ lệ góp vốn là bao nhiêu và nghĩa vụ, quyền lợi các bên như các loại hợp đồng thương mại thông thường. Khó khăn xảy ra là việc các doanh nghiệp thực hiện góp bằng nhãn hiệu, vốn chưa được định giá, song lại ghi trong giấy đăng ký kinh doanh là “góp vốn bằng tiền”. Và chính “hành động góp vốn bằng tiền nhưng lại không có tiền” này sẽ gây rắc rối cho hệ thống kế toán; đồng thời, gây ra rất nhiều vướng mắc nếu doanh nghiệp góp vốn muốn rút vốn, hay doanh nghiệp nhận vốn góp không muốn tiếp tục hợp tác.Việc không tính đến giá trị vô hình hay chưa xác định đúng giá trị tài sản

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 05/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí