đặc biệt, giá trị thanh lý, giá trị tài sản bắt buộc phải bán, giá trị doanh nghiệp, giá trị tài sản chuyên dùng, giá trị tài sản có thị trường hạn chế, giá trị để tính thuế...). Việc xác định giá trị tài sản trí tuệ theo góc độ thị trường hay phi thị trường phụ thuộc vào mục đích khi tiến hành định giá tài sản đó.
Trong kinh tế thị trường, giá trị của tài sản, hàng hóa, dịch vụ được tạo và duy trì bởi mối quan hệ giữa bốn yếu tố gắn liền với nhau: tính hữu ích, tính khan hiếm, nhu cầu và khả năng chuyển giao. Thiếu một trong bốn yếu tố đó thì giá trị thị trường của một tài sản, hàng hóa, dịch vụ không tồn tại. Như vậy, giá trị của tài sản trí tuệ được tạo nên bởi bốn yếu tố:
- Tính hữu ích: thể hiện ở giá trị sử dụng của tài sản trí tuệ có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người. Đối với từng loại tài sản trí tuệ, tính hữu ích có sự khác nhau.
- Tính khan hiếm: thể hiện ở khả năng cung không đáp ứng đầy đủ nhu cầu có khả năng thanh toán trên thị trường tại một thời điểm nào đó. Tính khan hiếm quyết định tới giá trị của tài sản và có tính tương đối. Trên thị trường, sự khan hiếm của tài sản trí tuệ sẽ làm cho tài sản đó có giá cạnh tranh cao hơn.
- Tính có nhu cầu: có thể hiểu như sự tác động của yếu tố cầu của thị trường lên giá trị của tài sản. Tính có nhu cầu của tài sản trí tuệ thể hiện nhu cầu có khả năng thanh toán của các khách hàng trên thị trường đối với tài sản. Trong nền kinh tế thị trường, cầu luôn tỷ lệ thuận với giá trị của tài sản trong điều kiện nguồn cung không thay đổi. Như vậy, giá trị của tài sản trí tuệ tăng khi nhu cầu tăng và ngược lại.
- Tính có thể chuyển giao: thể hiện sự chuyển giao về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản trí tuệ từ chủ thể này sang chủ thể khác, là một yêu cầu có tính pháp lý. Đây là một đặc tính rất quan trọng của giá trị đối với tài sản trí tuệ [17].
Đây là những yếu tố tạo nên thị giá (khả năng giao dịch trên thị trường) của tài sản trí tuệ. Tuy nhiên, khi định giá một tài sản trí tuệ để phục vụ cho các mục đích khác nhau của chủ sở hữu cần phải lưu ý tới những yếu tố tác động tới giá trị của tài sản trí tuệ đó để có thể xác định giá trị tài sản một cách chính xác, bao gồm:
- Tình trạng pháp lý của quyền sở hữu trí tuệ:
Tài sản trí tuệ khi đăng ký và được pháp luật bảo hộ sẽ mang lại cho doanh nghiệp quyền sở hữu trí tuệ. Nhìn chung thì việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ góp phần nâng cao giá trị của tài sản trí tuệ.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ làm cho tài sản trí tuệ “trở nên hữu hình” bằng cách biến chúng thành các tài sản độc quyền có giá trị có thể trao đổi thương mại được trên thị trường. Các quyền này cho phép chủ sở hữu đạt được quyền sở hữu đối với tài sản vô hình và khai thác tối đa các tài sản này. Một loạt các công cụ được hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ tạo ra nhằm cung cấp cho chủ sở hữu quyền một loạt các phương án quản lý và phát triển tài sản trí tuệ của họ. Quyền sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu quyền có được sự độc quyền đối với bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, giống cây trồng và theo đó: (1) làm giảm khả năng sao chép và bắt chước của đối thủ cạnh tranh; (2) làm tăng cơ hội thực tế trong việc thương mại hóa sản phẩm mới và cải tiến, và (3) giải quyết một cách có hiệu quả xung đột bất kỳ liên quan đến tài sản trí tuệ của họ [51].
Có thể bạn quan tâm!
- Định giá tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam - 1
- Định giá tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam - 2
- Giá Trị Của Tài Sản Trí Tuệ Và Những Yếu Tố Chi Phối Giá Trị Tài Sản Trí Tuệ
- Khái Quát Về Pháp Luật Định Giá Tài Sản Trí Tuệ
- Đặc Trưng Của Pháp Luật Về Định Giá Tài Sản Trí Tuệ
- Quy Định Pháp Luật Về Các Phương Pháp Định Giá Tài Sản Trí Tuệ
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Khi được pháp luật công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu tài sản trí tuệ có thể có nhiều cơ hội thương mại tài sản trí tuệ hơn so với chủ sở hữu các tài sản vô hình khác. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có thể hưởng được các lợi ích kinh tế từ việc cấp phép li-xăng, liên doanh, hoặc khai thác và phát triển các hoạt động hợp tác khác trong việc thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ ngoài việc ứng dụng vào hoạt động kinh doanh của họ.
Các quyền sở hữu trí tuệ nói chung hưởng tỷ lệ tiền bản quyền cao hơn và có giá trị thị trường cao hơn nhiều lần so với các tài sản vô hình khác. Theo nhận xét chung, thương mại quyền sở hữu trí tuệ (như li-xăng hoặc bán) có giá cao hơn so với các tài sản vô hình khác bởi vì người mua hoặc người xin cấp phép quyền sở hữu trí tuệ sẵn sàng trả nhiều hơn do có sự bảo vệ của pháp luật. Các quyền sở hữu trí tuệ làm giảm rủi ro gắn liền với giao dịch thương mại tài sản trí tuệ.
Thời hạn bảo hộ hay tuổi thọ pháp lý của quyền sở hữu trí tuệ: Trong khi nhiều tài sản vô hình không có quy định về thời hạn bảo hộ thì hầu hết các quyền sở hữu trí tuệ có quy định về thời hạn bảo hộ. Trong thời hạn đó, quyền sở hữu trí tuệ là bất khả xâm phạm. Mọi hành vi nhằm mục đích phổ biến, sử dụng tài sản trí tuệ đó đều phải có sự cho phép của chủ sở hữu. Hết thời hạn bảo hộ này (bao gồm cả thời hạn gia hạn nếu có), tài sản trí tuệ trở thành tài sản chung của nhân loại, có thể được phổ biến, sử dụng một cách tự do mà không cần bất kỳ sự cho phép nào của chủ sở hữu. Do vậy, thời hạn bảo hộ có ảnh hưởng lớn đến giá trị của tài sản trí tuệ và thông thường định giá thường chỉ được thực hiện trong thời hạn bảo hộ của tài sản trí tuệ (ngoại trừ một số tài sản trí tuệ không giới hạn thời hạn bảo hộ như nhãn hiệu, tên thương mại).
Phạm vi và điểm mạnh của yêu cầu bảo hộ trong văn bằng bảo hộ hoặc điểm mạnh của tài sản trí tuệ có vai trò quan trọng trong quá trình định giá. Việc bảo hộ rộng (bảo hộ ở nhiều quốc gia) có thể làm tăng giá trị của tài sản. Giá trị của tài sản có thể tăng lên khi độ khó để xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của tài sản cao hơn. Mặt khác, sự tồn tại của các tài sản trí tuệ tương tự có khả năng thay thế được bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tốt có thể ảnh hưởng tiêu cực tới giá trị tài sản trí tuệ của doanh nghiệp.
- Thời gian sử dụng của tài sản trí tuệ:
Thời gian sử dụng cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến giá trị của tài sản
trí tuệ. Một số loại tài sản trí tuệ như nhãn hiệu, tên thương mại, thời gian sử dụng càng lâu thì giá trị càng tăng. Một số loại tài sản trí tuệ mang tính công nghệ như sáng chế, kiểu dáng công nghệ, thời gian sử dụng càng lâu, tính mới giảm hoặc thời gian bảo hộ không còn nhiều thì giá trị càng giảm, do sự ra đời của những công nghệ mới thay thế…
- Triển vọng của ngành cụ thể liên quan:
Quyền sở hữu trí tuệ (ví dụ: bằng độc quyền sáng chế) có thể được định giá cao hơn nếu thời hạn chuyển nhượng hoặc li-xăng sáng chế đó không trùng với thời điểm giới thiệu một công nghệ bổ sung hoặc công nghệ thay thế có hiệu quả hơn trên thị trường. Ví thế, việc có kiến thức đầy đủ về xu hướng của ngành hoặc công nghệ khi tiến hành định giá là rất quan trọng.
1.2. Khái quát về định giá tài sản trí tuệ
1.2.1. Khái niệm định giá tài sản trí tuệ
Định giá là loại hoạt động chuyên môn vừa mang tính kinh tế - kỹ thuật, tính pháp lý, vừa mang tính xã hội. Hoạt động định giá hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của thị trường.
Theo quy định của pháp luật, định giá được hiểu như sau:
(1) Xác định giá trị (“valuation”).
Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006 quy định: “Định giá công nghệ là hoạt động xác định giá của công nghệ” [41].
(2) Quy điṇ h giá (“pricing”).
Luật Giá năm 2012 quy định: “Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quy định giá cho hàng hóa, dịch vụ” [43].
Như vậy, định giá tài sản được hiểu là việc tư vấn, định các mức giá cụ thể cho từng loại tài sản làm căn cứ cho các hoạt động giao dịch mua, bán tài sản, hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường. Đối với các loại tài sản, hàng hóa,
dịch vụ do nhà nước định giá (các cơ quan có thẩm quyền quy định) thì các mức giá cụ thể của từng loại tài sản, hàng hóa mang tính bắt buộc mọi đối tượng tham gia hoạt động giao dịch, mua bán phải thực hiện. Đối với các tài sản, hàng hóa, dịch vụ không thuộc danh mục Nhà nước định giá thì do các tổ chức, cá nhân tự định giá theo quy luật thị trường làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch mua bán, trao đổi.
Khái niệm định giá không đồng nhất với khái niệm “thẩm định giá”.
Theo Khoản 15, Điều 4 Luật Giá năm 2012:
Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá [43, Điều 4 , Khoản 15].
Thẩm định giá chú trọng vào việc kiểm tra, xác thực giá cả của hàng hóa, dịch vụ. Công việc thẩm định giá thường do các thẩm định viên về giá thực hiện theo tiêu chuẩn thẩm định giá do Nhà nước quy định.
Từ những khái niệm và phân tích nêu trên, định giá tài sản trí tuệ có thể được hiểu là hoạt động xác định giá trị và đưa ra giá cả của một tài sản trí tuệ cụ thể tại một thời điểm xác định, làm căn cứ cho các hoạt động giao dịch mua, bán tài sản trí tuệ đó trên thị trường.
1.2.2. Sự cần thiết phải định giá tài sản trí tuệ
Tài sản trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp và trong nhiều trường hợp nó có giá trị rất lớn, thậm chí lớn hơn rất nhiều giá trị hữu hình của doanh nghiệp. Do đó, định giá tài sản trí tuệ là việc làm hết sức quan trọng, giúp doanh nghiệp biết được giá trị tài sản trí tuệ của mình, từ đó có những quyết sách, chiến lược, kế hoạch kinh doanh phù hợp.
Các công cụ được sử dụng để định giá tài sản trí tuệ giúp cho doanh nghiệp quản lý được tài sản trí tuệ của mình một cách có hiệu quả và năng suất hơn, việc định giá tài sản trí tuệ tạo ra một tiêu chuẩn hữu ích và là cơ sở để đàm phán trong trường hợp chuyển giao hoặc mua bán tài sản trí tuệ.
Tài sản trí tuệ của một doanh nghiệp thường được định giá theo các mục tiêu sau đây:
- Mục tiêu giao dịch: đàm phán mua bán tài sản trí tuệ, xác định phí bản quyền trong hoạt động li-xăng, nhượng quyền thương mại;
- Mục tiêu tài chính: hạch toán và khấu hao tài sản trí tuệ; định thuế; xác định tỷ lệ góp vốn trong liên doanh, hợp tác kinh doanh; tái cấu trúc/tuyên bố phá sản; bảo hiểm tài sản/thế chấp tín dụng;
- Mục tiêu thông tin: đánh giá quá trình phát triển; hoạch định chiến lược nguồn lực; bổ sung cho cáo bạch tài chính;
- Mục tiêu pháp lý: xử lý xâm phạm quyền; xử lý vi phạm hợp đồng; phân chia tài sản.
Với mỗi mục đích khác nhau cần xác định rõ khi nào thì định giá liên quan đến toàn bộ một doanh nghiệp, khi nào chỉ định giá liên quan đến các giao dịch tài sản trí tuệ.
1.2.3. Các trường hợp định giá tài sản trí tuệ
Có nhiều lý do dẫn đến nhu cầu định giá tài sản trí tuệ trong các hoạt động kinh tế, pháp lý như: thế chấp vay vốn và ký quỹ, bảo hiểm, tái cơ cấu doanh nghiệp (giải thể, sáp nhập và mua bán, cổ phần hóa), giải quyết tranh chấp, hạch toán lập bảng cân đối tài chính doanh nghiệp, ấn định giá và phương thức giao dịch tài sản trí tuệ, thông tin quản lý và lập kế hoạch kinh doanh,… Từng trường hợp yêu cầu việc định giá có quan điểm tiếp cận, các vấn đề và các mối liên quan riêng cần chú ý dù có thể cùng sử dụng các phương pháp định giá như nhau. Hoạt động định giá tài sản trí tuệ chủ yếu được áp dụng trong các trường hợp sau:
- Hoạt động chuyển nhượng, li-xăng, nhượng quyền thương mại,… tài sản trí tuệ:
Với ý nghĩa là một dạng tài sản, tài sản trí tuệ có thể được chuyển nhượng toàn bộ hoặc chuyển giao một phần quyền thông qua các giao dịch như mua, bán, li-xăng, liên doanh, hợp tác kinh doanh trong quan hệ bên trong doanh nghiệp hoặc với các doanh nghiệp khác. Trong hầu hết các tình huống trên đều cần có sự hiểu biết về giá trị của tài sản trí tuệ. Để định ra mức phí chuyển nhượng hợp lý, tài sản trí tuệ cần được định giá. Chủ sở hữu tài sản trí tuệ mong muốn có mức thu nhập cần thiết trên cơ sở tính toán các chi phí trong quá khứ đã bỏ ra để xây dựng tài sản trí tuệ, chi phí cơ hội để khai thác tài sản trí tuệ. Người được chuyển nhượng thì mong muốn tìm hiểu giá trị tài sản trí tuệ ở mức bao nhiêu thì có thể tạo ra lợi ích cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khi giá trị chuyển nhượng liên quan đến các khoản thanh toán xuyên biên giới thì thường phát sinh các vấn đề về thuế. Hiện nay, mức giao dịch tài sản trí tuệ đã lên tới gần một phần hai tổng giá trị giao dịch toàn cầu.
Việc liên doanh trong nghiên cứu phát triển thường tạo ra công nghệ mới và có liên quan đến các quyền sở hữu trí tuệ. Sau khi kết thúc hợp đồng hợp tác, liên doanh được giải thể hoặc bán, khi đó cần đến việc định giá tài sản và các giá trị chuyển nhượng [35].
- Hoạt động góp vốn, tái cơ cấu, kế toán doanh nghiệp:
Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ: Trong cơ cấu vốn của một doanh nghiệp, vốn góp bằng tài sản trí tuệ có vai trò quan trọng trong việc tạo ra khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Vì thế, pháp luật cho phép các thành viên có thể góp vốn bằng tiền, vật tư, máy móc, thiết bị, nhà xưởng và cả bí quyết kỹ thuật hoặc quyền sở hữu trí tuệ,… Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư đều cho phép nhà đầu tư được quyền góp vốn bằng giá trị quyền sở hữu trí tuệ
với tư cách là một loại tài sản vô hình để tiến hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh. Trên cơ sở góp vốn, tài sản trí tuệ được dịch chuyển từ chủ sở hữu quyền sang doanh nghiệp. Tất nhiên, giá trị tài sản trí tuệ phải được định giá và quy đổi thành tiền theo nguyên tắc nhất trí.
Để tham gia thị trường chứng khoán, doanh nghiệp cần phải tiến hành định giá các tài sản của doanh nghiệp, trong đó có tài sản trí tuệ. Việc xác định giá trị doanh nghiệp là cơ sở để các tổ chức, cá nhân và công chúng đầu tư đưa ra quyết định mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán do doanh nghiệp phát hành trên thị trường chứng khoán. Tại nhiều nước, các doanh nghiệp đều tiến hành định giá tài sản trí tuệ để tính giá trị doanh nghiệp khi tham gia thị trường chứng khoán. Ví dụ: sáng chế tiết kiệm năng lượng trong hệ thống cung cấp nước của Công ty phát triển kỹ thuật Bắc Kinh được định giá lên tới 64.720.000 nhân dân tệ, chiếm tới 99,57% vốn đăng ký của công ty này khi tham gia thị trường cổ phiếu [30].
Việc tái cơ cấu doanh nghiệp cũng cần định giá tài sản trí tuệ. Các doanh nghiệp thường thực hiện việc tái cơ cấu thông qua các hoạt động như sáp nhập, mua bán, cổ phần hóa hoặc giải thể. Sự thiếu hiểu biết về các yếu tố “giá trị” có thể dẫn đến những kết quả không mong muốn, như việc bán với giá bỏ đi hoặc mua với giá không mang lại lợi ích mong đợi. Việc định giá hiệu quả các tài sản trí tuệ có thể tìm ra các giá trị riêng có thể khai thác, do đó có thể làm thay đổi tính chất hoặc giá giao dịch.
Những vấn đề tương tự cũng xảy ra trong việc giải thể doanh nghiệp, khi mà các tài sản cần phải thanh lý một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất có thể. Sự hiểu biết về giá trị của tài sản trí tuệ có thể mở ra những khả năng và cơ hội mới. Năm 1998, chuỗi nhà hàng Pierre Victorie bị rơi vào tình trạng phá sản và những người được nhượng quyền kinh doanh liên kết với nhau đưa ra giá bỏ thầu. Mức giá được xác định trên cơ sở phân tích lý do của việc