Điều Kiện Cần Và Đủ Khi Tài Sản Góp Vốn Là Tài Sản Trí Tuệ

3.1.2. Hoàn thiện quy định về thời điểm góp vốn

Như mục đã phân tích ở trên, trong thực tế đời sống kinh doanh việc góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn thường được thực hiện trước khi công ty được thành lập, thời điểm thực hiện việc góp vốn là đòi hỏi khách quan, tuân theo những yêu cầu khách quan này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thành công của doanh nghiệp, như vậy để thành công trong kinh doanh các nhà doanh nghiệp không thể góp vốn tùy theo ý chí chủ quan của họ mà phải tuân theo điều kiện thực tế khách quan.

Một trong những đặc tính quan trọng của pháp luật là tính khách quan, như vậy thời điểm góp vốn được thực hiện ngay cả trước khi công ty được thành lập là một thực tế khách quan, do vậy LDN không thể quy định là thời điểm góp vốn được thực hiện sau khi công ty được thành lập. Quy định như LDN hiện hành như đã phân tích là bất cập khi giải quyết những tranh chấp phát sinh về góp vốn trong những trường hợp công ty được thành lập hoặc không được thành lập và cơ sở pháp lý để ghi vào sổ kế toán các tài khoản cũng như các báo cáo tài chính của công ty.

Để giải quyết vấn đề trên LDN cần thay đổi quy định về thời điểm góp vốn nhằm điều chỉnh các quan hệ về góp vốn của các thành viên tham gia góp vốn của công ty, là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các thành viên góp vốn với nhau và giữa các thành viên với người thứ ba trong trường hợp công ty được thành lập, hay không được thành lập, quy định này cũng là cơ sở để lập sổ kế toán và các báo cáo tài chính của công ty. Đồng thời việc thay đổi quy định về thời điểm góp vốn của LDN hiện hành loại bỏ được sự mâu thuẫn giữa LDN với các văn bản pháp luật khác. Như vậy, LDN có thể thay đổi quy định về thời điểm góp vốn theo hướng hoàn thiện sau: Góp vốn là hành vi của các thành viên có ý tưởng thành lập công ty hoặc tham gia trở thành thành viên của công ty bằng việc cung cấp các dịch vụ hay góp tài sản nhằm mục đích thành lập công ty hoặc vì sự hoạt động của công ty một cách công khai, minh bạch.

3.1.3. Hoàn thiện quy định tài sản góp vốn

3.1.3.1. Về khái niệm tài sản góp vốn

Mặc dù khái niệm TSTT là một khái niệm đã được sử dụng rất phổ biến, tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có bất kỳ một văn bản nào quy định khái niệm TSTT nhưng đã có khái niệm quyền TSTT trong Luật SHTT "Quyền sở hữu trí tuệlà quyền của tổ chức, cá nhân đối với TSTT, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng" [39, Khoản 1 Điều 4]. Thông qua các khái niệm về quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng để hiểu thế nào là TSTT. Theo đó, TSTT được hiểu bao gồm: các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; các chương trình biểu diễn, các bản ghi âm và các chương trình phát sóng; các sáng chế; các kiểu dáng công nghiệp; các bí mật kinh doanh; các nhãn hiệu; bản quyền, bằng sáng chế, bí quyết thương mại, bí quyết kinh doanh; chỉ dẫn địa lý; tên thương mại; giống cây trồng mới; thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn... Khái niệm "tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" trong BLDS cũng như TSTT trong pháp luật SHTT quy định bằng cách liệt kê các hình thái biểu hiện, không mang tính khái quát đã tạo ra những bất cập, cụ thể:

Thứ nhất, quy định mang tính liệt kê, không đầy đủ, dẫn đến các hệ quả là sự tranh chấp về việc chấp thuận của các thành viên góp vốn trong vấn đề tài sản góp vốn, cũng như sự can thiệp tùy tiện của các cơ quan quản lý vào các báo cáo tài chính của công ty, ảnh hưởng đến tính rõ ràng, minh bạch của các báo cáo tài chính.

Thứ hai, vì quy định mang tính liệt kê do đó nó tạo ra tính không ổn định của pháp luật, vì khả năng sáng tạo của con người là vô tận, do đó của cải vật chất do con người làm ra, hay những quyền tài sản của họ cũng ngày càng đa dạng, phong phú, như vậy các hạng mục liệt kê tài sản sẽ phải thay đổi theo thời gian, và dẫn đến các quy định về tài sản cũng phải thay đổi.

Thứ ba, vì là liệt kê dẫn đến không thống nhất về quan niệm tài sản trong các văn bản khác nhau, đôi khi tạo ra sự mâu thuẫn giữa các văn bản.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Việc đưa ra các định nghĩa về tài sản nói chung và TSTT nói riêng có tính khái quát cao là điều cần thiết, đảm bảo được tính khoa học, góp phần vào hoàn thiện sự thống nhất trong Hệ thống pháp luật, loại bỏ được tính mâu thuẫn, không thống nhất. Việc đưa ra quy định mang tính khái quát sẽ thuận tiện cho các chủ thể góp vốn, tránh được tranh chấp có thể xảy ra cũng như tính ổn định của pháp luật. Các định nghĩa về tài sản phải đảm bảo được các đặc tính cơ bản của của nó.

- Tài sản là các yếu tố có hình thái vật chất (hữu hình), hoặc không có hình thái vật chất (vô hình), có thể xác định được giá trị, chuyển giao được trong giao dịch dân sự và hữu ích. Tài sản bao gồm tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản...

Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ trong pháp luật Việt Nam - 14

- TSTT là một loại đặc biệt của TSVH, đây là tài sản do trí tuệ con người sáng tạo ra thông qua các hoạt động tư duy, sáng tạo, không thể xác định được bằng các đặc điểm vật chất của chính nó nhưng lại có giá trị vì có khả năng sinh ra lợi nhuận và thường được pháp luật bảo vệ khỏi sự sử dụng trái thẩm quyền. TSTT gồm: các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; các chương trình biểu diễn, các bản ghi âm và các chương trình phát sóng; các sáng chế; các kiểu dáng công nghiệp; các bí mật kinh doanh; các nhãn hiệu; bản quyền, bằng sáng chế, bí quyết thương mại, bí quyết kinh doanh; chỉ dẫn địa lý; tên thương mại; giống cây trồng mới; thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn...

3.1.3.2. Điều kiện cần và đủ khi tài sản góp vốn là tài sản trí tuệ

Như đã phân tích, TSTT góp vốn phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể góp vốn, nếu tài sản thuộc sở hữu chung thì phải được sự thỏa thuận của các chủ sở hữu chung và là tài sản được lưu thông trong giao dịch dân sự. Tài sản góp vốn phải thuộc quyền sở hữu của thành viên góp vốn đây là điều kiện tiên quyết, vì việc thực hiện hành vi góp vốn tức là thực hiện quyền định đoạt

tài sản. Theo quy định hiện hành của LDS, chỉ chủ sở hữu mới có quyền định đoạt tài sản của mình. Việc không quy định tài sản góp vốn thuộc quyền sở hữu của thành viên tham gia góp vốn sẽ không đảm bảo chặt chẽ, gây ra những trường hợp tranh chấp về quyền sở hữu với tài sản góp vốn của người thứ ba đối với công ty, và như vậy sẽ dẫn đến việc tranh chấp những quyền và lợi ích phát sinh từ tài sản góp vốn như quyền tham gia điều hành công ty, lợi nhuận thu được từ hoạt động của công ty, thừa kế chuyển nhượng vốn góp. Sự tranh chấp sẽ ảnh hưởng đến hoạt động tổ chức của công ty, lợi ích và nghĩa vụ thanh toán tài sản khi công ty rơi vào tình trạng phá sản. Do đó LDN cần quy định rõ ràng tài sản sở hữu phải thuộc quyền sở hữu của thành viên góp vốn.

Khi tài sản góp vốn là tài sản sở hữu chung, các sở hữu chung cũng có các quyền trong đó quyền định đoạt tài sản đối với tài sản góp vốn, do đó việc góp vốn bằng tài sản chung đó phải được sự thỏa thuận của các chủ sở hữu chung.

Phương hướng hoàn thiện của LDN đối với điều kiện cần và đủ cho tài sản góp vốn là cần quy định rõ ràng tài sản góp vốn phải thuộc quyền sở hữu của thành viên góp vốn, tài sản thuộc sở hữu chung đem làm tài sản góp vốn phải được thỏa thuận của các đồng chủ sở hữu trên cơ sở chấp thuận của các thành viên tham gia góp vốn khác, tài sản đang có tranh chấp không thể đem góp vốn, trừ trường hợp đã có quyết định, bản án có hiệu lực của tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết vấn đề tranh chấp.

3.1.4. Thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu tài sản và trách nhiệm của người góp vốn

LDN hiện hành quy định thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu tài sản là thời điểm góp vốn vào công ty, tuy nhiên việc góp vốn thường được thực hiện trước khi công ty được thành lập, do đó thời gian từ thời điểm góp vốn đến thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu tài sản LDN còn bỏ ngỏ.

Thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu tài sản hết sức quan trọng, là bằng chứng xác nhận việc một thành viên đã thực hiện việc góp vốn vào công

ty, từ đó họ được hưởng các quyền và lợi ích phát sinh từ hành vi góp vốn. Nhưng việc góp vốn được thực hiện khi công ty được thành lập và nó có thể được thực hiện nhiều lần, do đó việc xác định thời điểm nào cấp giấy chứng nhận về việc đã góp vốn vào công ty là vấn đề cần thiết, nhằm tạo sở pháp lý cho việc khẳng định đã thực hiện hành vi góp vốn của một thành viên, là bằng chứng trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Do đó để cho một thành viên được cấp giấy giấy chứng nhận góp vốn họ phải có những chứng cứ cho việc góp vốn như hóa đơn, chứng từ về chi phí đã bỏ ra nhằm mục đích cho việc thành lập công ty, tiền đã gửi vào tài khoản ủy thác, hay xác nhận về góp vốn của các thành viên khác. Như vậy trước khi có giấy chứng nhận chính thức về phần vốn góp, các thành viên tham gia góp vốn phải có sự xác nhận hay các chứng cứ khác, như vậy việc chứng nhận phần góp vốn không thể thực hiện một lần, trước khi chính thức có giấy, những thành viên cần được cấp giấy chứng nhận tạm thời.

Các quy định về cấp giấy chứng nhận phần vốn góp của LDN hiện hành không phù hợp với thực tế, khi góp đủ vốn các thành viên góp vốn mới được cấp giấy chứng nhận phần vốn góp, người cấp giấy chứng nhận là người đại diện theo pháp luật của công ty.

LDN cần có thay đổi, bổ sung các quy định về cấp giấy chứng nhận phần vốn góp theo hướng:

- Việc cấp giấy chứng nhận không chỉ được thực hiện một lần khi góp vốn, trước khi được cấp giấy chứng nhận chính thức phần vốn góp, các thành viên được cấp giấy chứng nhận phần vốn góp tạm thời theo từng lần góp vốn.

- Việc cấp giấy chứng nhận chính thức phần vốn góp của các thành viên được thực hiện sau khi định giá tài sản góp vốn và chuyển dịch quyền sở hữu tài sản.

- Giấy chứng nhận phần vốn góp chính thức có chữ ký của người đại diện theo pháp luật của công ty, trước khi được cấp giấy này các giấy chứng

nhận tạm thời là cơ sở để đối chiếu giá trị các lần góp vốn và giấy chứng nhận chính thức thay thế cho tất cả các giấy chứng nhận tạm thời.


3.2. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

Để thực hiện góp vốn kinh doanh bằng TSTT, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về định giá TSTT của Việt Nam. Đây không chỉ là một trong những nhiệm vụ thuộc khuôn khổ hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành về TSTT và quyền SHTT mà còn là đòi hỏi của bản thân nền kinh tế, môi trường kinh doanh và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp [5].

Những yêu cầu cụ thể đối với việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về định giá TSTT như sau:

- Chú trọng xây dựng các văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh khía cạnh kinh tế của TSTT, gồm có các nội dung về hoặc liên quan tới vấn đề kiểm soát giá trị TSTT, như tạo dựng, khai thác, duy trì, phát triển, kiểm tra và xác định giá trị của TSTT. Thiếu hụt lớn nhất hiện nay trong hệ thống pháp luật Việt Nam về TSTT là thiếu chế định đồng bộ, chi tiết về các khía cạnh kinh tế của TSTT, đặc biệt là các quy định về xác định giá trị TSTT. Mặc dù có khoảng 15 văn bản pháp luật liên quan tới định giá TSTT nhưng các văn bản này chỉ quy định mang tính chất nguyên tắc về cách thức hạch toán kế toán đối với tài sản vô hình - trong đó bao gồm một số loại TSTT. Chẳng hạn, nguyên tắc và phương pháp kế toán tài sản cố định vô hình, nguyên tắc theo dõi ghi sổ và hạch toán giá trị TSTT, nguyên tắc coi giá trị của một số loại TSTT là một căn cứ để xác định giá trị thực tế của DN trong hoạt động cổ phần hóa…

- Thống nhất và chuẩn hóa thuật ngữ, khái niệm và nguyên tắc nhận dạng/xác định các TSTT trong các văn bản pháp luật hiện nay liên quan tới định giá TSVH và TSTT theo hướng phù hợp với các quy định tương ứng của pháp luật về quyền SHTT;

- Chú trọng những đặc tính riêng biệt của TSTT so với TSVH thông thường làm căn cứ xác định nguyên tắc định giá TSTT phù hợp. Với những đặc trưng riêng như phân tích trên đây cho thấy, việc định giá TSTT là một công việc khó, nếu không thực hiện đúng sẽ rất dễ gây tranh chấp giữa các bên. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật về định giá TSTT cũng như các quy định về việc góp vốn đối với tài sản này sẽ góp phần hạn chế những rủi ro cũng như những tranh chấp xảy ra, lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế, dân sự, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển;

- Quy định đầy đủ, rõ ràng các phương pháp xác định giá trị TSTT phù hợp với những phương pháp được áp dụng phổ biến trên thế giới hiện nay, trong đó làm rõ mục tiêu, nguyên tắc, các tiêu chí, công thức, quy trình... thực hiện nghiệp vụ định giá TSTT. Với những đặc trưng của loại tài sản này, chúng ta cần nghiên cứu sâu hơn, học tập kinh nghiệm của các nước để áp dụng những phương pháp định giá thích hợp cho từng loại TSTT cụ thể;

- Xây dựng Bộ tiêu chuẩn về định giá TSVH, trong đó có TSTT phù hợp với tiêu chuẩn về thẩm định giá của Việt Nam, làm căn cứ pháp lý phục vụ cho các hoạt động có liên quan tới giá trị TSTT (kế toán, tài chính doanh nghiệp, cổ phần hóa, liên doanh, góp vốn đầu tư, kinh doanh, giải quyết tranh chấp...);

- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn về định giá TSTT, tổ chức thi sát hạch và cấp chứng chỉ, đảm bảo chất lượng đào tạo, không ngừng nâng cao năng lực và trình độ cho các cán bộ chuyên trách định giá TSTT;

- Tiếp thu và học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới về định giá TSTT. Giá trị của TSTT có thể khác nhau nếu sử dụng phương pháp định giá khác nhau. Do vậy, các yếu tố kinh nghiệm và sự sẵn có của dữ liệu để thực hiện một phương pháp cụ thể có thể ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp định giá. Quyền SHTT (ví dụ bằng độc quyền sáng chế) có thể được định giá cao hơn nếu thời hạn bán hoặc li-xăng không trùng với thời điểm giới thiệu một công nghệ bổ sung hoặc thay thế hoặc công nghệ có hiệu

quả trên thị trường. Vì thế, việc có kiến thức đầy đủ về xu hướng hoặc ngành hoặc công nghệ khi tiến hành đánh giá là rất quan trọng.


3.3. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VÀ CÁC THIẾT CHẾ KINH TẾ, XÃ HỘI

Hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng như pháp luật về góp vốn kinh doanh bằng TSTT, định giá TSTT là cần thiết, nhằm mục đích tạo điều kiện tốt hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam chủ động trong việc xây dựng, khai thác TSTT một cách hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay. Loại bỏ và hạn chế những hành vi trục lợi, không trung thực, đồng thời khuyến khích những nhà doanh nghiệp trung thực, có tâm huyết bỏ vốn kinh doanh. Để thực hiện được ý tưởng này đòi hỏi sự quản lý vĩ mô và kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả. Để tránh tình trạng can thiệp tùy tiện bằng các biện pháp hành chính của các cơ quan chức năng, vấn đề đặt ra là cùng với hoàn thiện các quy định về của LDN phải đồng thời hoàn thiện các đạo luật khác như BLDS, Luật SHTT, LĐT, kế toán, thuế... sao cho tính công bằng và bình đẳng, tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau được đối xử không thiên vị hay kém thuận lợi hơn trong lĩnh vực đầu tư, nộp thuế, tiêu thụ sản phẩm, tiếp cận nguồn vốn cũng như công nghệ khoa học kỹ thuật và giải quyết tranh chấp.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật không là chưa đủ, ngày nay ở các nước công nghiệp phát triển cho thấy các thiết chế xã hội và kinh tế ngày càng tham gia vào quản lý xã hội nói chung, các hoạt động kinh tế nói riêng một cách có hiệu quả. Sự hiệu quả của các thiết chế này một mặt làm giảm bộ máy quan liêu hành chính, giảm gánh nặng chi tiêu ngân sách của nhà nước, các cơ quan quản lý chỉ giải quyết những lĩnh vực không thể xã hội hóa được, mặt khác khi các thiết chế này tham gia vào quản lý xã hội và nhà nước nó hạn chế tính độc quyền, tư tưởng áp đặt của các cơ quan quản lý, hạn chế sự tham nhũng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/05/2024