giá trị thị trường của TSTT, tức là mức giá ước tính sẽ được mua bán trên thị trường vào thời điểm định giá, giữa một bên là người mua sẵn sàng mua và một bên là người bán sẵn sàng bán, trong một giao dịch mua bán khách quan và độc lập, trong điều kiện thương mại bình thường.
Hiện nay, việc định giá TSTT người ta có áp dụng một số phương pháp định giá TSTT khác nhau. Mỗi phương pháp có những ưu, nhược điểm riêng và một số phương pháp có tính áp dụng cao hơn các phương pháp khác trong các trường hợp/vụ việc cụ thể.
1.1.4.1. Phương pháp định giá tiếp cận thu nhập
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất. Theo phương pháp này, việc tính toán giá trị của TSTT dựa trên bản chất của TSTT và được đánh giá trên cơ sở lợi ích kinh tế mà tài sản đó mang lại trong quá khứ, hiện tại hoặc dự kiến tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai. Về cơ bản, phương pháp này tập trung vào nguồn thu nhập ước tính mà chủ thể quyền SHTT mong muốn nhận được trong thời gian hiệu lực của văn bản bảo hộ quyền SHTT. Vì vậy, phương pháp này sử dụng chiết khấu nguồn tiền mặt được tạo ra giá trị hiện tại cho thu nhập tương lai. Có hai phương pháp ứng dụng cách tiếp cận này là phương pháp phân tích dòng tiền chiết khấu (DCF) và phương pháp vốn hóa thu nhập. Theo Bộ Tiêu chuẩn hướng dẫn định giá quốc tế đối với việc định giá TSVH do Hội đồng tiêu chuẩn định giá quốc tế (IVSC) công bố năm 2009 thì phương pháp tiếp cận thu nhập được khuyến nghị áp dụng do cách tiếp cận này cho kết quả đáng tin cậy hơn các cách tiếp cận khác.
1.1.4.2. Phương pháp định giá tiếp cận chi phí
Phương pháp tiếp cận chi phí dựa trên quan điểm đơn giản rằng một tài sản không thể đánh giá nhiều hơn chi phí để thay thế một tài sản khác có công dụng tương đương. Theo phương pháp này, giá để có được hoặc phát triển một tài sản mới cần tương xứng với những lợi ích kinh tế sẽ được tạo ra từ nó. Phương pháp này được sử dụng để ước tính các lợi ích trong tương lai
của TSTT bằng cách tính số chi phí cần thiết để thay thế TSTT. Tức là việc ước tính giá trị dựa trên căn cứ là các tài liệu, số liệu phản ánh nguồn lực tài chính, nhân lực, vật lực đầu tư để tạo ra tài sản đó hoặc tài sản tương đương.
Có 3 phương pháp định giá cơ bản dựa trên cách tiếp cận chi phí:
- Phương pháp dựa trên chi phí quá khứ: Giá trị TSVH được tính toán dựa trên các chi phí đã phát sinh trong quá trình xây dựng TSVH đó, tổng chi phí được coi như giá trị của tài sản.
- Phương pháp dựa trên chi phí tái tạo: Định giá TSVH bằng cách tính toán tất cả các chi phí cần thiết hiện nay để tạo dựng TSVH như hiện tại.
Có thể bạn quan tâm!
- Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ trong pháp luật Việt Nam - 1
- Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ trong pháp luật Việt Nam - 2
- Những Đặc Điểm Chủ Yếu Của Tài Sản Trí Tuệ
- Quyền Góp Vốn Bằng Tài Sản Trí Tuệ Và Đảm Bảo Của Nhà Nước Đối Với Việc Bỏ Vốn Tài Sản Trí Tuệ Đầu Tư Vào Hoạt Động Kinh Doanh
- Trách Nhiệm Pháp Lý Về Những Khoản Nợ Và Chi Phí Trong Quá Trình Hoạt Động Của Doanh Nghiệp
- Chuyển Dịch Quyền Sở Hữu Tài Sản Góp Vốn
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
- Phương pháp dựa trên chi phí thay thế: Phương pháp này dựa trên việc tính các chi phí thay thế là chi phí hiện hành để xây dựng, sản xuất hay chế tạo tài sản thay thế tài sản cần thẩm định giá, có loại trừ các bộ phận có chức năng lỗi thời, nhưng có tính đến tiến bộ khoa học, công nghệ tại thời điểm cần thẩm định giá để tạo ra sản phẩm thay thế có tính năng ưu việt hơn so với tài sản cần thẩm định giá. Chi phí thay thế được tính căn cứ vào khối lượng nguyên nhiên vật liệu có thể thay thế nhân (x) giá tại thời điểm thẩm định.
Phương pháp tiếp cận chi phí có ưu điểm là số liệu phục vụ cho việc tính toán tương đối rõ ràng, dễ thu thập vì thường được thống kê trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp, cách thức tính toán đơn giản, dễ thực hiện. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của phương pháp này là giá trị xác định được là nguyên giá chứ không phải là giá thị trường. Giá trị thu được từ cách tiếp cận chi phí chưa phản ánh được tiềm năng phát triển, rủi ro và hiệu quả kinh tế của TSTT; chưa phản ánh được rủi ro khi thực hiện việc nghiên cứu và triển khai một TSTT mới. Vì vậy, phương pháp này thường được sử dụng để bổ sung cho phương pháp tiếp cận thu nhập, ứng dụng để tính toán hiệu quả kinh tế và hiệu quả đầu tư đối với TSTT cho doanh nghiệp, phục vụ quá trình quản trị nội bộ doanh nghiệp hoặc để định giá những TSTT mới hình thành trước khi nó tạo dựng được chỗ đứng trên thị trường.
1.1.4.3. Phương pháp định giá tiếp cận thị trường
Đối với việc định giá các tài sản nói chung, việc xác định theo giá thị trường được coi là một phương pháp định giá khách quan và chính xác nhất. Vậy phương pháp tiếp cận này có thích hợp với việc định giá các TSTT không?
Phương pháp này dựa vào việc bên thứ ba sẵn sàng bỏ chi phí để mua hoặc thuê TSTT của doanh nghiệp. Qua phân tích, so sánh các giao dịch đối với loại TSTT tương tự để ước lượng giá trị. Cách tiếp cận này được xây dựng chủ yếu dựa trên tuân thủ nguyên tắc thay thế và phương pháp này cũng có thể được sử dụng bổ sung cho phương pháp tiếp cận thu nhập. Về nguyên tắc, phương pháp thị trường đưa lại kết quả có tính thuyết phục cao vì khả năng sử dụng thông tin thị trường, mà thị trường luôn là thước đo cuối cùng đối với mọi quyết định kinh tế. Đây là phương pháp đơn giản, không đòi hỏi nhiều về kỹ thuật vì không có công thức hay mô hình cố định mà chỉ dựa vào sự hiện diện của các giao dịch trên thị trường để rút ra các bằng chứng về giá trị. Tuy nhiên, trên thực tế không bao giờ có giao dịch về một loại TSTT hoàn toàn tương đồng với TSTT cần định giá vì TSTT là loại tài sản đặc thù, có tính độc quyền và đơn nhất.
Hơn nữa, còn có sự thiếu vắng các thông tin thị trường TSTT tương đương hoặc không cung cấp được các thông tin về cách xử lý các đặc điểm riêng biệt của từng giao dịch cụ thể. Chính vì thế mà phương pháp này hiếm khi được sử dụng để định giá TSTT trên thực tế.
Ngoài ra, trên thế giới còn có một số phương pháp định giá TSTT khác như: Phương pháp ứng dụng kỹ thuật định giá quyền chọn hoặc phương pháp định giá ứng dụng mô hình kinh tế lượng.
Như vậy, mục đích chủ yếu của việc định giá TSTT là nhằm xác định chính xác, đầy đủ và khách quan giá trị của tài sản đó, từ đó giúp chủ sở hữu đưa ra quyết định tối ưu, trong đó có các quyết định về phương thức kinh tế hiệu quả nhất để sử dụng, bảo vệ hoặc trao đổi tài sản đó trên thị trường nhằm
tối đa hóa giá trị tài sản. Với trường hợp góp vốn đầu tư, tham gia hợp đồng liên doanh bằng quyền sở hữu công nghiệp, việc xác định giá TSTT giúp xác định chính xác giá trị tài sản góp vốn là TSTT của chủ sở hữu TSTT trong dự án đầu tư hoặc liên doanh. Định giá TSTT hiển nhiên là hết sức cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, qua việc tham khảo các phương pháp định giá được chấp nhận phổ biến hiện nay, có thể thấy rõ rất khó để thực hiện định giá một cách hợp lý và chính xác TSTT. Các phương pháp định giá được đề xuất đều có những ưu điểm cũng như hạn chế nhất định, dẫn đến ảnh hưởng tới kết quả định giá. Việc định giá TSTT ở Việt Nam lại càng khó khăn hơn khi thị trường giao dịch các TSTT còn nghèo nàn, ít có các giao dịch tương đương để so sánh, hoàn toàn thiếu các thông tin công khai và minh bạch để làm cơ sở định giá.
1.2. PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN KINH DOANH BẰNG TÀI SẢN TRÍ TUỆ
1.2.1. Khái niệm về vốn góp và góp vốn kinh doanh bằng tài sản
1.2.1.1. Vốn góp kinh doanh bằng tài sản trí tuệ
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được
thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất - kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp tự chủ và tùy thuộc vào hình thức sở hữu doanh nghiệp mà quyền tự chủ trong kinh doanh được mở rộng trong mức độ cho phép. Trên bình diện tài chính, mỗi doanh nghiệp tự tìm kiếm nguồn vốn trên thị trường và tự chủ trong việc sử dụng vốn. Nhu cầu về vốn của doanh nghiệp được thể hiện ở khâu thành lập doanh nghiệp, trong chu kì kinh doanh và khi mở rộng đầu tư kinh doanh. Giai đoạn nào doanh nghiệp cũng có nhu cầu về vốn.
Trước hết, vốn là tiền đề cho sự ra đời của doanh nghiệp. Về phía Nhà nước, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải đăng ký vốn điều lệ nộp cùng hồ sơ xin đăng ký kinh doanh. "Vốn điều lệ theo pháp luật được hiểu là số
vốn góp và cam kết sẽ góp vốn của các thành viên tham gia góp vốn trong một thời gian nhất định ghi vào điều lệ công ty" [35, khoản 6 Điều 4]. Vốn điều lệ được đưa ra theo ý chí chủ quan của các thành viên tham gia góp vốn, nhưng ý chí chủ quan này lại là sự phản ánh khách quan vì một công ty cần vốn điều lệ là bao nhiêu phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, khả năng tài chính của các thành viên tham gia góp vốn, khả năng vay nợ sau khi công ty được thành lập. Vốn đầu tư ban đầu này sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét liệu doanh nghiệp có tồn tại trong tương lai được không và trên cơ sở đó, sẽ cấp hay không cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Pháp luật các nước (hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa) thường quy định vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp đối với từng ngành, nghề gọi là vốn pháp định. Khoản 7 Điều 4 LDN năm 2005 cũng quy định "Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp" [35].
Về phía doanh nghiệp, vốn điều lệ sẽ là nền móng cho doanh nghiệp đặt những viên gạch đầu tiên cho sự hình thành của doanh nghiệp trong hiện tại và phát triển trong tương lai. Nếu nền móng vững chắc, vốn điều lệ càng lớn thì doanh nghiệp càng có cơ hội phát triển. Vốn thấp, nền móng yếu, doanh nghiệp phải đấu tranh với sự tồn tại của mình và dễ rơi vào tình trạng phá sản. Nói tóm lại, vốn là lượng tiền đại diện cho yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Có yếu tố đầu vào doanh nghiệp mới tiếp tục sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn sản xuất, doanh nghiệp phải trả lương công nhân viên, chi phí bảo trì máy móc… Thành phẩm khi chưa bán được cũng cần đến vốn của doanh nghiệp. Khách hàng khi chưa thanh toán ngay cũng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Do vậy, khai thác các nguồn vốn và hội tụ nó lại để sử dụng có hiệu quả cho những chiến lược lớn lao là bài toán quyết định thành công cho bất cứ một cá nhân, một doanh nghiệp hay một quốc gia nào.
Xét về khía cạnh tài chính, vốn là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
mục đích sinh lời. Xét về hình thái biểu hiện, vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp có thể là vốn hữu hình bao gồm tiền, các loại giấy tờ có giá và những tài sản biểu hiện bằng hiện vật khác như đất đai, nhà xưởng hoặc là vốn vô hình là giá trị những TSVH như: vị trí địa lý của doanh nghiệp, bí quyết và công nghệ chế tạo sản phẩm, mức độ uy tín của nhãn hiệu sản phẩm trên thị trường … Trong đó, vốn vô hình, trong đó có vốn góp bằng giá trị TSTT cũng đóng góp vai trò quan trọng trong việc tạo khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Vì thế, pháp luật cho phép các thành viên có thể góp vốn bằng tiền, vật tư, máy móc, thiết bị, nhà xưởng và cả bí quyết kỹ thuật hoặc khả năng uy tín kinh doanh, quyền SHTT.... Tất nhiên, khi góp vốn, những tài sản đó phải được lượng hóa để quy về một cùng giá trị nhất định.
Nhìn chung, pháp luật của các nước hiện nay đều nghi nhận TSTT là tài sản hợp pháp và được nhà nước bảo hộ, chủ sở hữu được quyền đem TSTT đi góp vốn trong hoạt động đầu tư, kinh doanh. Tài sản góp vốn là TSHH hay TSVH (trong đó, gồm cả TSTT) đều phải có giá trị và được phép lưu thông trong các giao dịch dân sự. Điều kiện cần và đủ để một người đem một tài sản lưu thông có điều kiện làm tài sản góp vốn vào doanh nghiệp là người góp vốn và doanh nghiệp nhận vốn góp đều là đối tượng được phép sở hữu tài sản đó. Khi đem TSTT góp vốn, tài sản góp vốn phải thuộc quyền sở hữu của thành viên tham gia góp vốn. Nếu tài sản góp vốn là tài sản thuộc sở hữu chung của thành viên tham gia góp vốn với các chủ sở hữu khác thì phải có thỏa thuận của các chủ sở hữu chung. Tài sản đang có tranh chấp không thể đem làm tài sản góp vốn.
Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền SHTT, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác khác...nhưng phải được ghi trong Điều lệ công ty với tư cách là vốn góp của các thành viên góp vốn theo tỷ lệ đã được thống nhất từ trước. LDN năm 2005 cũng như LĐT năm 2005 đều cho phép nhà đầu tư được quyền góp vốn bằng giá trị quyền SHTT với tư cách là một loại TSVH để tiến
hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh (Điều 4 LDN và Điều 3 LĐT năm 2005). Theo đó, "quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ" [17, Điều 5].
1.2.1.2. Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ
Đến nay, góp vốn là khái niệm không còn xa lạ trong đời sống dân sự, kinh tế và pháp luật nhưng góp vốn bằng TSTT thì dường như vẫn là một khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam. Có thể nhận thấy, khái niệm góp vốn bắt nguồn từ khái niệm sở hữu chung trong pháp luật dân sự. Sở hữu chung là sở hữu của nhiều người đối với tài sản chung, trong khi góp vốn là việc đưa tài sản của nhiều người trở thành tài sản chung. BLDS năm 2005, "sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận" [34, Điều 214] là sở hữu chung hỗn hợp, theo đó "mỗi chủ sở hữu chung có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình" [34, Điều 216].
Việc góp vốn tạo nên sự liên kết giữa các thành viên trong doanh nghiệp về quyền và nghĩa vụ. Vốn nhiều hay ít của các thành viên tham gia sẽ tạo cho họ có ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức, điều hành của doanh nghiệp, phân chia lợi nhuận cũng như trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp. Do đó, để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng về tài sản của doanh nghiệp, cần có các quy định pháp luật điều chỉnh quá trình góp vốn của các thành viên trong doanh nghiệp.
Trong đời sống hàng ngày, góp vốn là việc đưa tài sản của nhiều người để trở thành tài sản chung của các thành viên tham gia góp vốn để thực hiện một công việc kinh doanh nhất định. LDN năm 2005 quy định:
Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể
là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp vốn để tạo thành vốn của công ty [35, Khoản 4 Điều 4].
Có thể nhận thấy khái niệm góp vốn mà LDN đưa ra là một khái niệm hẹp chỉ áp dụng trong các công ty (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh hay công ty cổ phần). Trong thực tế đời sống dân sự, người ta có thể góp vốn trên cơ sở một thỏa thuận về việc góp vốn, một hợp đồng góp vốn thậm chí một giấy viết tay do các bên tự thiết lập khi cùng tiến hành một công việc kinh doanh nhất định mà hai bên cùng thống nhất thực hiện.
Trong phạm vi một công ty, có thể hiểu góp vốn bằng TSTT là việc đưa TSTT vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty. Tuy nhiên, TSTT là một thứ rất trừu tượng nên việc góp vốn bằng TSTT thông qua quyền SHTT phải được sự nhất trí của tất cả các thành viên tham gia góp vốn. Theo Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 1/10/2010 hướng dẫn chi tiết LDN, "quyền SHTT được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền SHTT khác theo quy định của pháp luật SHTT" [17, Điều 5]. Trên cơ sở góp vốn, quyền SHTT được dịch chuyển từ chủ sở hữu quyền TSTT sang công ty.
Phần vốn góp vào công ty thông thường là được tính bằng tiền, nhưng nếu bằng hiện vật hoặc bằng giá trị quyền SHTT phải được định giá và quy đổi thành tiền theo nguyên tắc nhất trí. Tuy nhiên, quyền TSTT là vô hình, rất khó xác định giá trị nên dễ xảy ra tranh chấp giữa các thành viên khi góp vốn kinh doanh và thường là các tranh chấp về phần vốn góp của mỗi thành viên; về quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với phần vốn góp; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp; về việc trị giá phần vốn góp giữa các thành viên; về việc chuyển