Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế Điều Chỉnh Thuế Thu Nhập Trong Điều Kiện Việt Nam Là Thành Viên Wto

81

không có quy định khống chế chi phí thuê tổ chức quản lý nên nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) lợi dụng để chuyển giá thông qua việc tăng chi phí thuê quản lý của tổ chức nước ngoài. Điển hình, có doanh nghiệp FDI đã tăng chi phí quản lý từ 3% doanh thu gộp năm 2003 lên 40% vào năm 2008. Trước đó, để hướng dẫn chi tiết nội dung thuê tổ chức quản lý quy định tại Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và Nghị định 12/CP ngày 18/2/1997, Liên Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên bộ số 13/TTLB ngày 08/10/1997 hướng dẫn việc thuê tổ chức quản lý để quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó khống chế mức phí quản lý tối đa đối với một số lĩnh vực: kinh doanh khách sạn, căn hộ cho thuê; kinh doanh văn phòng hoặc biệt thự cho thuê; kinh doanh sân golf hay câu lạc bộ thể thao, vui chơi giải trí. Tuy nhiên đến nay do Luật Đầu tư nước ngoài đã được thay thế bởi Luật Đầu tư năm 2005, do đó một số doanh nghiệp đã không thống nhất áp dụng theo quy định tại Thông tư liên bộ 13/TTLB ngày 08/10/1997. Để đáp ứng yêu cầu quản lý và hạn chế việc doanh nghiệp lợi dụng chuyển giá thì cần nghiên cứu bổ sung quy định phần chi phí thuê tổ chức quản lý của các bên có quan hệ liên kết để quản lý kinh doanh vượt quá mức quy định của Bộ Tài chính không được tính vào chi phí và giao Chính phủ quy định tiêu chí, điều kiện xác định các bên có quan hệ liên kết.

Ngoài ra, cần nghiên cứu bổ sung quy định khoản trích nộp quỹ hưu trí tự nguyện cho người lao động được tính vào chi phí, trừ phần vượt mức quy định của Chính phủ không được tính vào chi phí được trừ nhằm khuyến khích các mô hình quỹ đầu tư mới (như quỹ hưu trí tự nguyện) hình thành góp phần phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán, hỗ trợ các chương trình an sinh xã hội, giảm bớt gánh nặng chi tiêu ngân sách nhà nước và đồng bộ với đề xuất sửa đổi tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNCN.

- Điều chỉnh chính sách thuế thu nhập cá nhân chưa linh hoạt.

Mức giảm trừ gia cảnh chưa linh hoạt: Theo quy định tại Luật thuế TNCN, mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế là 4.000.000 đồng/người/tháng, mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng (không giới hạn số người phụ thuộc). Mức giảm trừ gia cảnh này được xây dựng trên cơ sở tham chiếu các chỉ tiêu GDP bình quân đầu người, mức thu nhập, chi tiêu trung bình của xã hội và tiền

82

lương tối thiểu tại thời điểm luật có hiệu lực năm 2009. Nếu so sánh mức giảm trừ gia cảnh với một số nước trong khu vực thì mức giảm trừ gia cảnh hiện hành cho người nộp thuế của Việt Nam khá cao (bằng khoảng 2,5 lần GDP bình quân đầu người tại thời điểm luật có hiệu lực năm 2009 và bằng khoảng 1,7 lần GDP bình quân đầu người năm 2011). Ví dụ: Trung Quốc (từ ngày 01/9/2011) quy định một mức giảm trừ gia cảnh (không quy định mức riêng cho bản thân người nộp thuế hay cho người phụ thuộc) là 42.000 NDT/năm (tương đương 6.404 USD/năm và bằng 1,23 lần GDP bình quân đầu người năm 2011); In-đô-nê-xi-a quy định mức giảm trừ cho cá nhân người nộp thuế là 15,84 triệu rupi/năm (tương đương 1.830 USD/năm và bằng khoảng 0,527 GDP bình quân đầu người năm 2011); Ma-lai-xi-a quy định mức giảm trừ cho cá nhân người nộp thuế là 9.000 RM/năm (tương đương 2.687 USD/năm và bằng khoảng 0,312 lần GDP bình quân đầu người năm 2011).

Với mức giảm trừ hiện hành thì một người độc thân có thu nhập 4 triệu đồng/tháng chưa phải nộp thuế; người nộp thuế có thu nhập 7,2 triệu đồng/tháng mà phải nuôi hai người phụ thuộc cũng chưa phải nộp thuế; người có thu nhập 10 triệu đồng/tháng nếu nuôi 01 người phụ thuộc thì số thuế phải nộp là 220 nghìn đồng, nếu nuôi 02 người phụ thuộc thì tiền thuế phải nộp là 140 nghìn đồng (bằng 1,4% thu nhập chịu thuế), phần thu nhập sau khi nộp thuế của cá nhân là 9,86 triệu đồng (98,6% thu nhập chịu thuế).

Thực hiện quy định này, tính đến hết năm 2011 có 12.647.286 cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công và từ thu nhập khác được cấp mã số thuế, trong đó chỉ có khoảng 3,87 triệu người phải nộp thuế (chiếm khoảng 4,4% dân số cả nước, khoảng 30,6% số cá nhân được cấp mã số thuế); có 3.247.433 cá nhân, hộ kinh doanh được cấp mã số thuế (trong đó có 1.744.770 cá nhân, hộ kinh doanh đang hoạt động) và chỉ có khoảng 194 nghìn cá nhân, hộ kinh doanh phải nộp thuế (chiếm khoảng 0,2% dân số cả nước, khoảng 6% trên tổng số hộ, cá nhân được cấp mã số thuế).

Thực tế từ năm 2009 đến nay, do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế - xã hội Việt Nam gặp nhiều khó khăn, giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng cao làm ảnh hưởng đến đời sống người nộp thuế. Mặc dù thu nhập có tăng lên cùng với sự tăng trưởng kinh tế, mức giảm trừ 4 triệu đồng vẫn bảo

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.

83

đảm cao hơn mức thu nhập bình quân đầu người dự kiến đến năm 2014 (mức thu nhập bình quân đầu người năm 2014 theo tính toán khoảng 2,8 triệu đồng); tuy nhiên để thực hiện việc giảm tỷ lệ động viên thuế, phí trên GDP theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2020, đảm bảo tính ổn định của chính sách cho giai đoạn sau năm 2014, đồng thời để có sự quan tâm, chia sẻ của Nhà nước đối với người nộp thuế trước bối cảnh khó khăn của nền kinh tế thì cần thiết nghiên cứu điều chỉnh nâng mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế.

Điều chỉnh thuế thu nhập của Việt Nam trong điều kiện Việt Nam là thành viên WTO - 12

+ Quy định về “Giảm trừ gia cảnh” đối với thuế thu nhập cá nhân tuy bước đầu phù hợp thực tế đối với Việt Nam nhưng đối với người nước ngoài có thu nhập phát sinh tại Việt Nam còn chưa phù hợp. Mới chỉ quy định cho trừ 1,6 triệu đồng/người phụ thuộc, chưa cho trừ 1 số khoản chi phí y tế, giáo dục có hoá đơn chứng từ hợp lệ. Quy định này cũng không khuyến khích người tiêu dùng Việt Nam lấy hoá đơn khi tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ.

- Điều chỉnh thuế suất thuế thu nhập vẫn còn cảm tính

Thuế suất thuế TNDN ở nước ta có xu hướng ngày càng giảm và thực hiện thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế suất 25% là mức trung bình so với trong khu vực (bằng Trung Quốc) nhưng còn cao hơn một số quốc gia, vùng lãnh thổ như Hồng-kông, Xin-ga-po, Thai Lan… Theo xu thế cải cách thuế của các nước đều có xu hướng giảm dần mức thuế suất phổ thông để tạo sự hấp dẫn, tăng tính cạnh tranh môi trường đầu tư trong thu hút đầu tư. Mặt khác, tại Chiến lược cải cách thuế cũng đã đưa ra nội dung điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN theo lộ trình phù hợp để thu hút đầu tư tạo điều kiện để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy để đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh. Khi doanh nghiệp phát triển sẽ tạo ra nhiều hàng hóa, của cải vật chất cho xã hội, tạo thêm nhiều lợi nhuận và thuế nộp cho NSNN cũng sẽ tăng thêm. Mặt khác, kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy cần quy định mức thuế suất thấp hơn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thực tế trong những năm gần đây Việt Nam đều thực hiện giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, việc giảm nay chưa có lộ trình rõ ràng mà là xử lý tình thế. Bên cạnh đó, các tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ

84

yếu dựa vào tiêu thức vốn và lao động nên chưa được chính xác, chưa phù hợp thông lệ quốc tế.

Theo quy định tại Điều 13, khoản 2 Điều 23 Luật thuế TNCN, cá nhân chuyển nhượng chứng khoán nộp thuế theo 02 phương pháp: (i) áp dụng mức thuế suất 20% trên chênh lệch giữa giá chuyển nhượng và giá mua và chi phí liên quan; và (ii) nộp thuế khấu trừ tại nguồn theo tỷ lệ 0,1% trên giá bán của mỗi lần chuyển nhượng. Theo điểm c khoản 1 Điều 7 Luật thuế TNCN thì kỳ tính thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán là theo lần chuyển nhượng hoặc theo năm, trường hợp cá nhân áp dụng kỳ tính thuế theo năm thì phải đăng ký từ đầu năm với cơ quan thuế. Văn bản hướng dẫn Luật quy định cá nhân nộp thuế theo phương pháp thứ nhất phải thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ và phải đăng ký nộp thuế chậm nhất ngày 31/12 của năm trước; Cá nhân chuyển nhượng chứng khoán nộp thuế theo phương pháp thứ hai không phải quyết toán thuế khi kết thúc năm.

Thực tế năm 2009, số lượng chứng khoán chuyển nhượng 17.754.870.578 đơn vị với giá trị 819.660 tỷ đồng; năm 2010 chuyển nhượng 21.616.271.569 đơn vị với giá trị chuyển nhượng 715.416 tỷ đồng. Năm 2011 chuyển nhượng 17.142.035.622 đơn vị với giá trị chuyển nhượng 357.416 tỷ đồng.

Do luật quy định phải đăng ký phương pháp tính thuế từ đầu năm nên trong trường hợp thị trường sụt giảm, nhà đầu tư chuyển nhượng chứng khoán bị lỗ nhưng vẫn phải nộp thuế theo thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng (mức thuế suất khấu trừ tại nguồn). Rất ít các nhà đầu tư chứng khoán là cá nhân thực hiện việc quyết toán và áp dụng mức thuế suất 20% trên chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Vì phải thực hiện chế độ kế toán; hoá đơn chứng từ; đăng ký nộp thuế trước ngày 31/12 của năm trước và rất khó xác định giá bán bình quân mỗi mã chứng khoán bán ra khi quyết toán thuế.

Để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư được lựa chọn phương pháp tính thuế cần nghiên cứu sửa đổi điểm c khoản 1 Điều 7 Luật thuế TNCN.

Về tiêu thức xác định cá nhân cư trú:

Luật thuế TNCN (khoản 2 Điều 2 Luật thuế TNCN) quy định cá nhân cư trú là cá nhân đáp ứng 1 trong 2 điều kiện: (1) có mặt tại VN từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại VN; và

85

(2) có nơi ở thường xuyên tại VN, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại VN theo hợp đồng thuê có thời hạn.

Do luật không quy định thời hạn của hợp đồng thuê nhà nên quá trình triển khai, nghị định và thông tư căn cứ pháp luật về cư trú, về nhà ở đã hướng dẫn mở rộng điều kiện (2) theo đó, cá nhân "có nơi ở thường xuyên tại VN, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn từ 90 ngày trở lên nên phát sinh bất cập là người VN có nơi ở đăng ký thường trú tại VN mà đi công tác, học tập, lao động ở nước ngoài từ 183 ngày trở lên, người nước ngoài là đối tượng cư trú tại nước ngoài đến VN làm việc mà có hợp đồng thuê nhà tại VN từ 90 ngày trở lên nhưng chưa đến 183 ngày đều có thể là đối tượng cư trú của 2 nước và là đối tượng nộp thuế TNCN tại VN trên thu nhập toàn cầu. Mặc dù không dẫn đến tình trạng cá nhân là đối tượng cư trú của 2 nước như nêu trên bị đánh thuế trùng và không làm tăng thêm số thuế thu được (do đã được khắc phục bằng việc áp dụng Hiệp định tránh đánh thuế trùng mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia), tuy nhiên, quy định này vẫn phát sinh thủ tục hành chính gây phiền toái cho người nộp thuế và phức tạp trong quản lý thu thuế và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Vì vậy, cần thiết sửa đổi quy định này tại nghị định của Chính phủ và thông tư hướng dẫn của Bộ tài chính.

- Điều chỉnh về ưu đãi thuế thu nhập chưa rõ nên còn lúng túng khi áp dụng

Việc quy định về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay chưa minh bạch, dẫn đến cách hiểu và thực hiện chưa được đúng quy định.

Đối với Khái niệm doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư để được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.

Có nhiều cách hiểu khác nhau về dự án đầu tư. Thứ nhất là lập dự án đầu tư đồng thời thành lập ngay doanh nghiệp để thực hiện dự án đầu tư đó. Thứ hai là lập dự án đầu tư giao cho ban quản lý dự án trực thuộc thực hiện đầu tư xây dựng, sau khi dự án hoạt thành đi vào hoạt động mới bàn giao cho doanh nghiệp mới. Ngoài ra, hiện nay có một số doanh nghiệp được thành lập trước để làm các thủ tục cho dự án đầu tư, nhưng do điều kiện khách quan hoặc chủ quan nên các năm sau dự án đầu tư mới được phê duyệt. Vì vậy, cần quy định cụ thể hơn khái niệm doanh

86

nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư để cơ quan thuế và doanh nghiệp có cơ sở áp dụng thực hiện thống nhất.

- Điều chỉnh thuế thu nhập theo địa bàn ưu đãi chưa hợp lý.

Luật thuế TNDN quy định DN mới thành lập từ dự án đầu tư tại khu kinh tế, khu công nghệ cao, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng ưu đãi thuế TNDN cao nhất là thuế suất 10% trong 15 năm, “miễn 4, giảm 9”. DN mới thành lập tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn được áp dụng thuế suất 20% trong 10 năm, miễn 2, giảm 4. Theo đó, có nhiều ý kiến cho rằng doanh nghiệp nằm trong khu kinh tế cũng hưởng ưu đãi cao nhất như doanh nghiệp thành lập tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn là chưa phù hợp.

- Điều chỉnh thuế thu nhập theo lĩnh vực, ngành nghề ưu đãi chưa linh hoạt.

Luật thuế TNDN (Điều 13, 14) quy định lĩnh vực ưu đãi thuế gồm: lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của Nhà nước, sản xuất sản phẩm phần mềm; doanh nghiệp thành lập mới hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường (lĩnh vực XHH). DN mới thành lập từ dự án đầu tư vào các lĩnh vực nêu trên được áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế tối đa 4 năm, giảm tối đa trong 9 năm tiếp theo. Riêng lĩnh vực XHH được áp dụng thuế suất 10% trong suốt thời gian hoạt động. Ngoài ra, HTX dịch vụ nông nghiệp, quỹ tín dụng nhân dân được áp dụng thuế suất 20% trong suốt thời gian hoạt động.

Tuy nhiên, căn cứ tình hình phát triển kinh tế xã hội trong thời gian vừa qua và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn tới cần rà soát bổ sung những lĩnh vực, ngành nghề cần khuyến khích thu hút đầu tư (như dự án đầu tư xây dựng nhà ở công nhân, nhà ở cho sinh viên, người có thu nhập thấp, tổ chức tài chính vi mô); đồng thời đưa ra khỏi lĩnh vực ưu đãi hoặc đưa xuống mức thấp hơn những lĩnh vực ngành nghề không còn là lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm cần khuyến khích phát triển như lĩnh vực sản xuất sản phẩm phần mềm.

- Xác định các khoản thu nhập được hưởng ưu đãi còn chồng chéo

+ Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với một số khoản thu nhập khác: Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành quy định không áp dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập khác.

87

Thực tế thực hiện các quy định nêu trên đã phát sinh vướng mắc là DN phát sinh một số khoản thu nhập khác có liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN nhưng do theo luật được đưa vào thu nhập khác nên trường hợp DN thuộc đối tượng ưu đãi thuế thì khoản thu nhập này không được hưởng ưu đãi thuế (Ví dụ: thu nhập từ bán phế liệu phế phẩm, thu nhập từ lãi tiền gửi, lãi tiền vay, từ chênh lệch tỷ giá…) nên gây bức xúc cho doanh nghiệp. Để tháo gỡ vướng mắc này, Nghị định 122/2011/NĐ-CP của Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung điểm e, điểm o khoản 2 Điều 3 Nghị định 124/2008/NĐ-CP, theo đó quy định chỉ những khoản hoàn nhập dự phòng (trừ khoản hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính, dự phòng nợ phải thu khó đòi và dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá tại doanh nghiệp; hoàn nhập khoản trích lập quỹ dự phòng tiền lương), thu nhập từ bán phế liệu, phế phẩm không liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh đang được hưởng ưu đãi thuế thì mới tính vào thu nhập khác.

Do đó, để đảm bảo chính sách rõ ràng, minh bạch, công bằng và đảm bảo cơ sở pháp lý trong thực hiện cần nghiên cứu quy định rõ các khoản thu nhập khác không được hưởng ưu đãi thuế, còn lại các khoản thu nhập khác liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN thì hưởng ưu đãi thuế TNDN.

+ Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án đầu tư mở rộng: Tại Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 đã bãi bỏ ưu đãi đầu tư mở rộng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hiện nay doanh nghiệp có xu hướng đầu tư đa ngành, đa lĩnh vực, nhiều doanh nghiệp đang hoạt động có dự án đầu tư mở rộng. Việc đầu tư mở rộng của doanh nghiệp được thực hiện dưới nhiều hình thức, rất đa dạng: hoặc lập ra một phân xưởng sản xuất mới, một dây chuyền sản xuất mới hoặc một cơ sở sản xuất mới tại các địa bàn khác, nhất là địa bàn ưu đãi đầu tư hoặc ngành nghề ưu đãi đầu tư mà không hình thành pháp nhân mới; hoặc đầu tư mở rộng dẫn đến thành lập pháp nhân mới. Những loại hình đầu tư mở rộng không hình thành pháp nhân mới cũng hiệu quả tương tự như đầu tư hình thành pháp nhân, cần được khuyến khích nhưng quy định hiện hành lại không được hưởng ưu đãi dẫn đến chưa tạo động lực khuyến khích, thu hút đầu tư, góp phần vào việc phân bổ nguồn lực có hiệu quả.

88

+ Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải:

Dự án đầu tư sản xuất theo cơ chế phát triển sạch (CDM) là dự án đầu tư sản xuất theo công nghệ mới, tiên tiến, thân thiện với môi trường, có kết quả giảm phát thải khí nhà kính được Ban chấp hành quốc tế về CDM (là tổ chức được các nước tham gia công ước khí hậu thành lập và uỷ quyền giám sát các dự án CDM) chấp thuận đăng ký và cấp chứng chỉ giảm phát thải (CERs) và chứng chỉ này có thể được chuyển nhượng. Để được cấp CERs thì dự án phải sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới thân thiện với môi trường, doanh nghiệp phải bỏ vốn đầu tư lớn và thủ tục đăng ký phức tạp, đồng thời bị giám sát chặt chẽ trong quá trình thực hiện. Hơn nữa việc cạnh tranh giữa các nước để thu hút công nghệ này rất gay gắt. Để khuyến khích doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường, Nghị định 122/2011/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định: “Thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải (CERs), thời gian miễn thuế tối đa không quá 01 năm, kể từ ngày được cấp chứng chỉ giảm phát thải (CERs).

Để đảm bảo chính sách rõ ràng, minh bạch và nâng cao tính pháp lý cần xem xét nghiên cứu bổ sung ngay tại Luật quy định miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế điều chỉnh thuế thu nhập trong điều kiện Việt Nam là thành viên WTO

- Phương pháp điều chỉnh và đánh giá tác động điều chỉnh thuế thu nhập chưa thống nhất.

Thực hiện cải cách hệ thống thuế từ chính sách thuế đến cải cách quản lý thuế, đã quy định giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp tự khai, tự tính, tự chịu trách nhiệm. Cơ quan thuế chuyển sang thực hiện chức năng tuyên truyền, hỗ trợ và quản lý rủi ro. Tuy nhiên, việc quản lý này thực sự có hiệu quả khi có được sự đồng bộ về các mặt, từ cơ sở hạ tầng, hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý và sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành. Ví dụ, muốn rà soát xem người nộp thuế kê khai có 1 nhà ở duy nhất có đúng không thì cơ quan quản lý địa chính phải có hồ sơ địa chính và phải kết nối dữ liệu trên toàn quốc để

Xem tất cả 184 trang.

Ngày đăng: 07/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí