4. Bài học kinh nghiệm
Qua nghiên cứu hoạt động cho thuê tài chính của một số nước trong giai đoạn hình thành và phát triển, có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Sự quan tâm của chính phủ đến việc tạo điều kiện mở rộng hoạt động thị trường CTTC thông qua môi trường pháp lý đồng bộ, chính sách ưu đãi thuế, quy định xuất nhập khẩu hàng hóa để cho thuê là nền tảng, động lực thúc đẩy thị trường CTTC phát triển.
Các công ty CTTC phải khảo sát nhu cầu của thị trường, vận dụng một cách linh hoạt các phương thức tài trợ, phương thức thu hồi vốn thích ứng nhu cầu khách hàng đồng thời mở rộng thị phần hoạt động, đa dạng hóa các sản phẩm cho thuê.
Khách hàng thuê thường là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây chính là thị trường tiềm năng. Khi thị trường CTTC phát triển mạnh thì khách hàng thuê mở rộng đến các công ty lớn. Các công ty CTTC có thể tham gia tài trợ những dự án lớn với phương thức tài trợ đặc biệt như tài trợ liên kết hoặc có thể tham gia vào thị trường CTTC nước ngoài.
Thị trường CTTC phát triển cùng với sự phát triển kinh tế. Như vậy, thị trường CTTC cũng bị ảnh hưởng với chu kỳ tăng trưởng kinh tế chiến lược. Vì vậy khi xây dựng chiến lược cho công ty cần phải xem xét chiến lược đó có phù hợp với chính sách kinh tế hiện hành không.
Tóm lại, thông qua việc nghiên cứu những lý luận cơ bản về cho thuê tài chính và kinh nghiệm hoạt động CTTC của một số nước có thị trường CTTC phát triển ở Châu Á, chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm phát triển của các nước này. Tuy rằng không thể áp dụng một cách máy móc các biện pháp và chính sách mà các nước này sử dụng vì mỗi nước có một chính sách phát triển và nền tảng kinh tế khác nhau nhưng thông qua đó cũng có thể rút ra một số bài học phát triển. Trên cơ sở đó chúng ta có thể hiểu rõ hơn yếu tố cốt lõi thúc đẩy hoạt động của thị trường này và đây cũng chính là nền tảng đưa ra một số giải pháp sau này.
Chương II
NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP WTO
I. CƠ HỘI CỦA HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
1. Nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh
Hội nhập quốc tế với việc gia nhập WTO sẽ thúc đẩy cạnh tranh và kỷ luật thị trường trong hoạt động CTTC. Với các qui định chung trong WTO và cam kết về lĩnh vực tài chính ngân hàng buộc các công ty CTTC phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Cạnh tranh giữa các công ty CTTC sẽ thúc đẩy hiệu quả không chỉ trong huy động vốn, phân bổ các nguồn vốn mà còn hiệu quả kinh doanh của mỗi công ty. Đồng thời mở cửa thị trường tài chính trong nước với sự thâm nhập của các công ty cho thuê tài chính nước ngoài sẽ đồng thời tạo động lực thúc đẩy đồng thời cũng tạo ra yêu cầu cho các công ty CTTC phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh tùy theo thế mạnh cạnh tranh của mình.
Quá trình hội nhập sẽ tạo ra những công ty có qui mô lớn, tài chính lành mạnh và kinh doanh hiệu quả. Và hơn thế nữa khả năng cạnh tranh của các công ty CTTC sẽ được nâng cao bởi cơ hội liên kết, hợp tác với các đối tác nước ngoài trong chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và khai thác thị trường. Khả năng tiếp cận đối với các khu vực thị trường mới, các nhóm khách hàng có mức độ rủi ro thấp cũng được mở rộng do nhu cầu thuê tài chính tăng lên cùng với sự gia tăng số lượng các doanh nghiệp. Quá trình hội nhập buộc các doanh nghiệp phải đổi mới nâng cao năng lực kinh doanh có hiệu quả hơn. Vì vậy môi trường kinh doanh của các công ty CTTC có mức độ rủi ro thấp hơn, hoạt động của công ty cho thuê nhờ đó tăng tính an toàn, lành mạnh và hiệu quả.
Sự tăng cường phối hợp chính sách trao đổi thông tin và phối hợp hoạt động giữa các ngân hàng, tổ chức tài chính đa phương với các công ty CTTC sẽ giúp tăng cường sự an toàn trong hoạt động của toàn hệ thống tài chính và đối phó với những biến động của thị trường tài chính tiền tệ trong nước. Như vậy toàn cầu hóa và hội nhập WTO trong lĩnh vực tài chính ngân hàng mở ra cơ hội phát triển hợp tác quốc tế về các vấn đề tài chính tiền tệ, các diễn biến kinh tế, các chiến lược vĩ mô qua đó nâng cao được uy tín và vị thế của hệ thống các công ty CTTC Việt Nam trên trường quốc tế.
Mở cửa thị trường tài chính ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả phân phối nguồn lực và tăng cường khả năng thanh toán, thúc đẩy thị trường tài chính trong nước phát triển ổn định, tăng cường chất lượng hoạt động của hệ thống các trung gian tài chính nói chung và các công ty CTTC nói riêng. Đồng thời thúc đẩy và duy trì hệ thống chính sách lành mạnh góp phần phát triển kinh tế.
2. Học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ công nghệ và quản trị trong công ty cho thuê tài chính
Mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ngân hàng theo cam kết song phương và đa phương chính là điều kiện tốt để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính, đồng thời các công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến được các công ty trong nước tiếp thu thông qua sự liên kết, hình thức kinh doanh, hỗ trợ kỹ thuật của các công ty CTTC nước ngoài cho các công ty trong nước. Sự tham gia điều hành quản trị của các nhà đầu tư nước ngoài tại công ty CTTC trong nước là yếu tố quan trọng để cải thiện nhanh chóng trình độ quản trị kinh doanh của công ty CTTC trong nước.
Các công ty trong nước có nhiều cơ hội nhận được sự hỗ trợ về tư vấn đào tạo bồi dưỡng kiến thức mới, xây dựng nguồn lực quản trị tiên tiến dưới sự giúp đỡ của các công ty CTTC nước ngoài. Đồng thời các công ty CTTC
Việt Nam có điều kiện tăng cường khả năng phòng ngừa và xử lý rủi ro nhờ áp dụng công nghệ ngân hàng, kỹ năng quản trị và phát triển sản phẩm mới.
Cùng với quá trình gia nhập vào kinh tế quốc tế, hệ thống các công ty CTTC sẽ có thêm điều kiện đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn kinh nghiệm quản lý cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
3. Khơi thông, thu hút nguồn vốn
Nhờ đa dạng hóa hình thức hiện diện thương mại của các tổ chức tài chính tín dụng, các công ty trong nước có khả năng huy động các nguồn vốn từ thị trường tài chính quốc tế và sử dụng vốn có hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và các chi phí cơ hội. Nguồn vốn trên thị trường tài chính trong nước trở nên sẵn có hơn và được phân bổ có hiệu quả không chỉ do nguồn vốn quốc tế mà còn do tăng khả năng huy động các nguồn tiết kiệm nội địa nhờ tác động của tự do hóa tài chính và đầu tư. Do các hạn chế về đầu tư tài chính được dỡ bỏ, các định chế tài chính nói chung và công ty CTTC nói riêng sẽ linh hoạt hơn trong việc phản ứng điều chỉnh hành vi của mình theo các diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để tối đa hóa cơ hội sinh lời và giảm thiểu rủi ro.
Sự hiện diện của các thể chế tài chính quốc tế sẽ giúp cho các tổ chức trong nước tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường vốn quốc tế. Hơn nữa để thu hút được các công ty lớn có uy tín vào hoạt động tại thị trường trong nước, trong cam kết cũng đưa ra các yêu cầu về tổng tài sản có đối với tổ chức tín dụng muốn thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam. Theo cam kết này, tổ chức tín dụng nước ngoài muốn thành lập công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam thì tổ chức tín dụng đó phải có tổng tài sản cuối năm trước khi nộp đơn là 10 tỷ USD, trước đó theo qui định thì vốn điều lệ của công ty cho thuê tài chính nước ngoài là 5 triệu USD. Như vậy, yêu cầu trong cam kết đưa ra sẽ thu hút được các tổ chức tài chính lớn có năng lực tài chính thực sự đầu tư vào Việt Nam.
4. Tiềm năng thị trường cho thuê tài chính rộng mở
Việt Nam hội nhập dẫn đến giao dịch thương mại nhiều lên, và cùng với tự do hóa thương mại làn sóng đầu tư mạnh mẽ, nhờ đó số lượng các doanh nghiệp cũng không ngừng tăng lên. Đây chính là thị trường đầy tiềm năng cho các công ty CTTC. Chiếc bánh sẽ lớn hơn cho tất cả và thành công cho ai khai thác tốt cơ hội này.
Bảng 3. Số lượng các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh
2004 | % | 2005 | % | 2006 | % | 2007 | % | |
TỔNG SỐ | 91756 | 100 | 112950 | 100 | 131332 | 100 | 265950 | 100 |
Doanh nghiệp Nhà nước | 4597 | 5.01 | 4086 | 3.62 | 3720 | 2.83 | 3190 | 1.2 |
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh | 84003 | 91.55 | 105167 | 93.11 | 123392 | 93.96 | 255212 | 96 |
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài | 3156 | 3.44 | 3697 | 3.27 | 4220 | 3.21 | 7548 | 2.8 |
Có thể bạn quan tâm!
- Dịch vụ cho thuê tài chính. Cơ hội và thách thức trong thời kỳ hội nhập WTO - 2
- Phân Biệt Cho Thuê Tài Chính Với Một Số Nghiệp Khác Của Ngân Hàng
- Dịch vụ cho thuê tài chính. Cơ hội và thách thức trong thời kỳ hội nhập WTO - 4
- Năng Lực Điều Hành Chính Sách Tiền Tề Cũng Như Năng Lực Giám Sát Hoạt Động Của Ngân Hàng Nhà Nước Vẫn Còn Hạn Chế
- Trình Độ Quản Lý Điều Hành Và Chất Lượng Nhân Viên
- Rủi Ro Đến Từ Phía Khách Hàng Và Quá Trình Thẩm Định Dự Án
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Nguồn: Website Sở kế hoạch đầu tư Tp Hồ Chí Minh
Hơn nữa quá trình hội nhập quốc tế buộc các doanh nghiệp phải đổi mới, nâng cao năng lực và kinh doanh có hiệu quả hơn, đó chính là động lực đối với sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam. Từ đó tạo môi trường kinh doanh ngân hàng nói chung và công ty CTTC nói riêng sẽ an toàn, lành mạnh và hiệu quả hơn.
5. Tiếp cận thị trường nước ngoài
WTO có mục tiêu giải quyết vấn đề sống còn của thương mại, đó là vấn đề thị trường, thực hiện tự do hoá, thuận lợi hóa thương mại và đầu tư.
Trong cơ chế vận hành của WTO, điều khoản 1 về chế độ tối huệ quốc (MFN) quy định các bên tham gia ký kết hiệp định phải dành cho nhau những đối xử không kém phần thuận lợi hơn những ưu đãi mà mình dành cho các
nước thứ ba khác, bình đẳng cạnh tranh, không phân biệt đối xử trong thương mại. Đồng thời, các nước cũng cam kết dành cho nhau đối xử quốc gia (NT), không phân biệt hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu và hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng những ưu đãi thương mại dịch vụ và có điều kiện mở rộng thị trường. CTTC cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó.
Khi hội nhập là xu thế khách quan, là xu thế phát triển toàn cầu thì sự phát triển của một quốc gia không thể tách rời với sự phát triển chung của thế giới. Ngành tài chính ngân hàng Việt Nam nói chung và CTTC nói riêng cũng đang trên con đường hội nhập đón nhận một luồng đầu tư mới từ bên ngoài đồng thời bản thân các công ty CTTC Việt Nam cũng phải vươn tới thị trường nước ngoài để tìm kiếm những cơ hội mới. Hiện tại thì các công ty CTTC Việt Nam chưa khai thác thị trường nước ngoài nhưng chắc chắn trong thời gian tới khi mà cơ hội liên doanh liên kết trong thời kỳ hội nhập đem lại thì hợp tác kinh doanh, tìm kiếm thị trường mới là cơ hội mà các công ty CTTC Việt Nam nên nắm bắt vì việc hợp tác này có lợi cho cả hai bên bởi có thể tận dụng được nguồn lực và hệ thống đại lý sẵn có của nhau.
II. NHỮNG THÁCH THỨC CỦA HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
1. Môi trường pháp lý
Hệ thống pháp luật tuy đã được khẩn trương xây dựng để đáp ứng yêu cầu mới, nhưng một số qui định giữa các Luật, Nghị định vẫn còn thiếu đồng bộ. Đây là thách thức không chỉ ảnh hưởng việc thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, mà còn là vướng mắc đối với các bên liên quan đó chính là các công ty cho thuê tài chính và bên đi thuê. Việc xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp, thống nhất không chỉ đơn thuần vì gia nhập WTO mà thực chất là vì sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động cho thuê tài chính nói riêng.
Thứ nhất, hệ thống chính sách pháp luật hiện nay còn có một số hạn chế đã tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các loại hình tổ chức tín dụng trong nước, chưa tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng và cạnh tranh bình đẳng cho hoạt động cho thuê tài chính:
- Về điều kiện huy động vốn:
Tại khoản 2, Điều 45 của Luật các Tổ chức Tín dụng và tại khoản 1, Điều 16 của Nghị định 16/2001/NĐ-CP chỉ cho phép công ty cho thuê tài chính được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên và theo khoản 3 Điều 2 Luật các Tổ chức Tín dụng qui định công ty cho thuê tài chính không được nhận tiền gửi không kỳ hạn. Điều này khiến các công ty cho thuê tài chính khó cạnh tranh với các tổ chức tín dụng và làm hạn chế khả năng huy động vốn của các công ty này. Phần lớn công ty cho thuê hoạt động tốt trên thị trường hiện nay là công ty trực thuộc các Ngân hàng, vốn dựa vào Ngân hàng mẹ. Trong khi đó, quan hệ tiền tệ giữa Ngân hàng với các công ty con không phải là vô hạn hoặc nếu có quy định nào đó hạn chế quan hệ này thì công ty cho thuê sẽ lấy vốn ở đâu? Điều chắc chắn là không thể trông chờ nguồn ký quỹ không đáng kể từ khách hàng trong khi thực tế nhu cầu vốn của các công ty cho thuê tài chính ngày càng lớn và khả năng tài chính của các công ty cho thuê tài chính có vai trò rất quan trọng trong chiến lược và kế hoạch kinh doanh của các công ty cho thuê. Vì vậy Luật các Tổ chức tín dụng và Nghị định 16/2001/NĐ-CP cần phải có những sửa đổi về quy định nghiệp vụ nhận tiền gửi của các công ty cho thuê tài chính như là một kênh huy động vốn hiệu quả tạo sự công bằng và từ đó thúc đẩy hoạt động cho thuê tài chính phát triển.
- Về hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và nhập khẩu tài sản cho thuê:
Điều 20 khoản 10, 11 Luật các TCTD qui định: CTTC là hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Tuy nhiên, trong thực tế cùng một dự án khi khách hàng vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng thương mại thì doanh nghiệp được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư nhưng khi các tổ chức kinh tế đi thuê tài chính thuộc
các lĩnh vực, ngành nghề được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư thì quĩ hỗ trợ đầu tư phát triển lại không chấp nhận CTTC như là một hoạt động tín dụng để hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
Điều 18, Nghị định 16/NĐ-CP qui định “công ty CTTC được trực tiếp những máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và động sản mà bên đã được phép mua, nhập khẩu và sử dụng theo các qui định hiện hành của pháp luật”. Đến thời điểm này, công ty CTTC chưa có văn bản hướng dẫn của bộ thương mại để thực hiện được qui định này.
Vì vậy công ty CTTC và doanh nghiệp phải tốn thủ tục, thời gian thậm chí phải đi vòng tức là công ty CTTC phải ủy thác cho bên thuê nhập khẩu tài sản. Như vậy việc nhập khẩu tài sản rất khó khăn.
- Chính sách thuế:
Qui định khấu trừ thuế VAT đối với tài sản cố định giữa loại hình CTTC và tín dụng ngân hàng là bất cập. Theo thông tư của bộ tài chính: “thuế giá trị gia tăng của tài sản thuê tài chính bên CTTC đã nộp sẽ được bên đi thuê trả dần trên cơ sở hợp đồng CTTC”. Giá trị tài sản thuê được cấu thành giá trị của tài sản cộng với VAT, thuế trước bạ và các chi phí liên quan như chi phí bảo hành, bảo dưỡng, phí bảo hiểm... Tài sản cố định thuê tài chính thì bên thuê được khấu trừ hàng tháng kéo dài trong suốt thời gian thuê. Khách hàng thuê phải chịu lãi suất trên giá trị tài sản thuê, theo qui định thuế VAT được khấu trừ dần theo số tiền thuê trả từng kỳ hạn. Điều đó có nghĩa là khách hàng thuê phải trả lãi trên phần thuế VAT. Trong khi đó nếu tài sản cố định do bên thuê tự mua bằng nguồn vốn tự có hoặc vay ngân hàng thì theo luật thuế VAT, bên thuê sẽ được khấu trừ liên tiếp trong khoảng thời gian 3 tháng, nếu số tiền thuế giá trị gia tăng quá lớn mà không khấu trừ hết thì doanh nghiệp được hoàn thuế.
Qui định thuế xuất nhập khẩu, VAT đối với tài sản cố định CTTC được thực hiện theo phương thức mua và cho thuê lại không phù hợp. Nghĩa vụ của