Trường hợp người nước ngoài do Chính phủ của nước ký kết Hiệp định với Việt Nam cử sang Việt Nam làm việc cho các tổ chức của Chính phủ nước đó đặt tại Việt Nam hoặc cho các chương trình hợp tác kinh tế, văn hoá, viện trợ giữa hai nước, thì tiền lương, tiền công do Chính phủ nước ngoài trả cho cá nhân đó sẽ được miễn thuế thu nhập tại Việt Nam cho dù vì mục đích thực hiện các công việc như vậy mà đối tượng đó trở thành đối tượng cư trú của Việt Nam.
Tiền lương, tiền công do Chính phủ một nước ký kết Hiệp định với Việt Nam bị đánh thuế tại Việt Nam nếu được trả cho một cá nhân cư trú của Việt Nam để thực hiện các công việc cho Chính phủ nước ngoài tại Việt Nam và cá nhân này mang quốc tịch Việt Nam hoặc đã là đối tượng cư trú của Việt Nam trước khi thực hiện các công việc tại Việt Nam phục vụ cho Chính phủ nước ngoài.
Khi một cá nhân nhận được tiền lương hưu được trả từ một quỹ do Nhà nước Việt Nam hay các cơ quan chính quyền địa phương của Việt Nam lập ra, hoặc được trả bởi chính Nhà nước Việt Nam hay các cơ quan chính quyền địa phương đó thì tiền lương hưu này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Việt Nam, trừ khi cá nhân nói trên vừa là đối tượng cư trú của nước ký kết Hiệp định với Việt Nam vừa mang quốc tịch của nước ký kết đó. Trong trường hợp này, thu nhập tiền lương hưu của cá nhân nói trên sẽ được miễn thuế Việt Nam.
Việc đánh thuế đối với tiền lương, tiền công hay tiền lương hưu do Chính phủ nước ngoài trả cho một cá nhân vì tham gia các hoạt động kinh doanh của Chính phủ nước ngoài tại Việt Nam như hoạt động của doanh nghiệp vận tải đường sắt, bưu chính hoặc công ty biểu diễn Nhà nước tùy theo từng trường hợp sẽ được áp dụng theo các quy định thu nhập từ hoạt động cá
nhân phụ thuộc, thu nhập từ thù lao giám đốc, thu nhập của nghệ sĩ và vận động viên và thu nhập từ lương hưu.
Có thể bạn quan tâm!
- Thuế Đối Với Thu Nhập Từ Cung Cấp Dịch Vụ Kỹ Thuật
- Thuế Đối Với Thu Nhập Từ Hoạt Động Ngành Nghề Độc Lập
- Thuế Đối Với Thu Nhập Từ Hoạt Động Biểu Diễn Của Nghệ Sỹ Và Vận Động Viên
- Sơ Lược Về Vai Trò Và Sự Phát Triển Của Pháp Luật Việt Nam Về Tránh Đánh Thuế Hai Lần
- Các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và nước ngoài - 15
- Các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và nước ngoài - 16
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
Việt Nam có quyền đánh thuế đối với thu nhập từ hoạt động phục vụ Chính phủ của đối tượng cư trú (hoặc đã là đối tượng cư trú của Việt Nam trước khi thực hiện hiện công việc làm công cho Chính phủ nước ký kết) đồng thời mang quốc tịch nước mình mà việc làm công đó thực hiện ở Việt Nam.
Việt Nam có nghĩa vụ không đánh thuế đối với thu nhập từ hoạt động phục vụ Chính phủ nước ký kết Hiệp định với Việt Nam thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam của cá nhân là đối tượng cư trú của nước ký kết đó và cá nhân này mang quốc tịch nước đó.
2.2.15. Thuế đối với thu nhập của sinh viên, học sinh học nghề
Thuế đối với thu nhập của sinh viên, học sinh học nghề thường được quy định tại Hiệp định như sau: "Những khoản tiền mà một sinh viên hay thực tập sinh nhận được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập hay đào tạo mà người sinh viên hay thực tập sinh này ngay trước khi đến một nước ký kết đang và là người cư trú của nước ký kết kia và hiện có mặt tại nước thứ nhất chỉ với mục đích học tập hay đào tạo, sẽ không bị đánh thuế tại nước thứ nhất, với điều kiện những khoản tiền đó có nguồn gốc từ bên ngoài nước này." (Điều 20 Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy sỹ ký năm 1996).
Ngoài quy định chung như trên, một số Hiệp định còn quy định miễn thuế đối với thu nhập mà sinh viên, thực tập sinh nhận được từ hoạt động làm công liên quan trực tiếp đến hoạt động học tập, đào tạo của đối tượng đó.
Việc quy định sinh viên, thực tập sinh đó phải là đối tượng cư trú của nước ký kết là nhằm phân biệt rõ trường hợp đối tượng này đã từng là đối
tượng cư trú của nước ký kết nhưng trước khi đến học tập tại nước ký kết kia thì lại là đối tượng cư trú của một nước thứ ba (không phải nước ký kết Hiệp định). Những trường hợp như vậy không được áp dụng Hiệp định.
Như vậy, nước nơi sinh viên, thực tập sinh là đối tượng cư trú của nước ký kết kia đang học tập, đào tạo có nghĩa vụ không đánh thuế đối với thu nhập mà sinh viên, thực tập sinh đó nhận được không có nguồn gốc từ nước đó dùng để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập.
Theo pháp luật Việt Nam, thu nhập của sinh viên và học sinh học nghề nước ngoài tại Việt Nam phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, học nghề tại Việt Nam, thuộc phạm vi điều chỉnh của điều khoản này chỉ bao gồm: i) Thu nhập nhận được từ các nguồn tại nước ngoài để phục vụ cho mục đích học tập, sinh hoạt tại Việt Nam; ii) Thu nhập nhận được từ công việc tại Việt Nam có liên quan trực tiếp đến hoạt động học tập, nghiên cứu, học nghề tại Việt Nam (trong trường hợp Hiệp định có quy định).
Việt Nam có nghĩa vụ không đánh thuế đối với thu nhập của sinh viên, học sinh nước ngoài ngay trước khi sang Việt Nam học tập, nghiên cứu, học nghề là đối tượng cư trú của nước ký Hiệp định với Việt Nam với điều kiện thu nhập đó có nguồn gốc ngoài Việt Nam để phục vụ mục đích học tập, sinh hoạt hoặc thu nhập mà sinh viên, học sinh nước ngoài đó nhận được từ công việc tại Việt Nam nhưng có liên quan trực tiếp đến hoạt động học tập, nghiên cứu, học nghề tại Việt Nam.
2.2.16. Thuế đối với thu nhập của giáo viên, giáo sư và người nghiên cứu
Thuế đối với thu nhập của giáo viên, giáo sư và người nghiên cứu thường được quy định tại Hiệp định như sau: "1. Một cá nhân hiện tại ngay trước khi sang một nước ký kết là đối tượng cư trú của nước ký kết kia và hiện có mặt tại nước ký kết thứ nhất với mục đích chủ yếu là giảng dạy, thuyết trình hay tiến hành nghiên cứu tại một trường đại học, cao đẳng, phổ thông hay cơ sở giáo dục hay tổ chức nghiên cứu khoa học được Chính phủ của nước ký kết thứ nhất chỉ định trong một khoảng thời gian 2 năm kể từ ngày đầu tiên đến nước ký kết thứ nhất, sẽ được miễn thuế tại nước ký kết thứ nhất đối với khoản tiền công trả cho hoạt động giảng dạy, thuyết trình hay nghiên cứu như vậy.
2. Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với thu nhập từ hoạt động nghiên cứu nếu việc nghiên cứu này được một cá nhân thực hiện vì lợi ích công cộng và ngay từ đầu không phải vì lợi ích riêng của một hay nhiều cá nhân khác." (Điều 21 Hiệp định giữa Việt Nam và Rumani ký năm 1995)
Trong các Hiệp định Việt Nam ký với các nước, có một số Hiệp định có điều khoản riêng về thu nhập của giáo viên, giáo sư và người nghiên cứu, như Hiệp định ký với Udơbêkixtăng năm 1996, một số Hiệp định không có quy định về thu nhập từ cung cấp dịch vụ kỹ thuật như Hiệp định ký với Thụy sỹ năm 1996. Các trường hợp Hiệp định không quy định tránh đánh thuế hai lần với loại thu nhập này phải chịu thuế thu nhập đối với loại thu nhập này theo nội luật của nước cư trú và nước có nguồn thu nhập.
Quy định này nhằm khuyến khích tăng cường trao đổi về giáo dục vì về thực chất thì với thời gian hai năm thì đối tượng đó đã trở thành đối tượng cư
trú của nước miễn thuế và không có mâu thuẫn về thẩm quyền đánh thuế, nước đó hoàn toàn có quyền đánh thuế theo quy định của nội luật nước mình.
Nước ký kết có nghĩa vụ không đánh thuế đối với thu nhập nhận được từ hoạt động giảng dạy, thuyết trình hoặc nghiên cứu trong thời gian hai năm của một đối tượng có mặt tại nước mình nhưng ngay trước khi có mặt tại nước đó là đối tượng cư trú của nước ký kết kia. Việc miễn thuế sẽ không được áp dụng nếu hoạt động giảng dạy, nghiên cứu đó phục vụ mục đích tư.
Giáo viên, giáo sư, người nghiên cứu nước ngoài ngay trước thời điểm sang Việt Nam giảng dạy, thuyết trình, nghiên cứu là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam, sẽ được miễn thuế đối với tiền công từ hoạt động giảng dạy, thuyết trình, nghiên cứu đó trong thời gian 2 (hai) năm kể từ ngày đầu tiên người đó đến Việt Nam giảng dạy, thuyết trình hoặc nghiên cứu tại các trường đại học hoặc cơ sở giáo dục được Chính phủ Việt Nam chấp nhận.
Việc miễn thuế như trên không áp dụng đối với trường hợp hoạt động giảng dạy, nghiên cứu phục vụ cho mục đích riêng của một cá nhân hoặc của một tổ chức tư nhân.
Việt Nam có nghĩa vụ không đánh thuế đối với thu nhập nhận được từ hoạt động giảng dạy, thuyết trình hoặc nghiên cứu vì mục đích công trong thời gian hai năm của một đối tượng có mặt tại nước mình nhưng ngay trước khi có mặt tại nước đó là đối tượng cư trú của nước ký kết kia.
2.2.17. Thuế đối với thu nhập khác
Thuế đối với thu nhập khác thường được quy định tại Hiệp định như sau: "1. Bất kỳ khoản thu nhập nào không được đề cập đến tại các điều khoản
trên của Hiệp định này của một đối tượng cư trú của một nước ký kết từ các nguồn của nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế ở nước đó” (Điều 22 Hiệp định giữa Việt Nam và Liên bang Nga ký năm 1993).
Thu nhập khác là những khoản thu nhập chưa được đề cập đến trong Hiệp định (không thuộc các loại thu nhập đã nêu ở trên).
Như vậy, thu nhập khác chỉ bị đánh thuế tại nước phát sinh thu nhập.
Nước cư trú có nghĩa vụ không đánh thuế các khoản thu nhập này.
Theo pháp luật Việt Nam quy định tại Mục XVII Phần B Thông tư số 133/2004/TT-BTC, thu nhập khác là toàn bộ các khoản thu nhập còn chưa được đề cập cụ thể tại các điều khoản trong Hiệp định như thu nhập từ trúng thưởng xổ số, thu nhập từ tiền cấp dưỡng theo nghĩa vụ hôn nhân gia đình,….
Theo quy định của Hiệp định, một đối tượng cư trú của nước ký kết Hiệp định với Việt Nam có các khoản thu nhập khác từ Việt Nam sẽ phải nộp thuế theo quy định của luật thuế Việt Nam. Tuy vậy, phải xem xét từng trường hợp cụ thể và Hiệp định cụ thể vì đối với đối tượng áp dụng Hiệp định này thì được miễn thuế nhưng nếu là đối tượng cư trú của nước khác thì khi áp dụng Hiệp định tương ứng thì đối tượng đó không được miễn thuế, ví dụ một cá nhân là đối tượng cư trú của nước ký kết Hiệp định với Việt Nam trúng thưởng xổ số với số tiền trên 10 triệu đồng tại Việt Nam. Theo quy định về thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam, với mức thu nhập trên 10 triệu đồng từ tiền trúng thưởng, cá nhân này có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam (Điểm 6 Mục II Phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định 100/2008/NĐ-CP ngày 8/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thuế
thu nhập cá nhân). Nếu cá nhân đó là đối tượng cư trú của Pháp thì căn cứ Điều 20 (thu nhập khác) Hiệp định giữa Việt Nam và Pháp ký năm 1993, thu nhập này được miễn thuế tại Việt Nam. Nếu cá nhân đó là đối tượng cư trú của Trung Quốc thì căn cứ Điều 22 (thu nhập khác) Hiệp định giữa Việt Nam và Trung Quốc ký năm 1995, thu nhập này phải chịu thuế ở Việt Nam.
Trường hợp khoản thu nhập khác liên quan đến cơ sở thường trú tại Việt Nam của một đối tượng cư trú của nước ký kết với Việt Nam thì Việt Nam có quyền thu thuế đối với khoản thu nhập đó theo quy định của Luật thuế Việt Nam và phù hợp với quy định về thu nhập từ hoạt động kinh doanh và thu nhập từ hoạt động ngành nghề độc lập, tuỳ theo từng trường hợp.
Như vậy, Việt Nam có quyền đánh thuế đối với thu nhập khác của đối tượng cư trú nước ký kết phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam có nghĩa vụ không đánh thuế đối với thu nhập khác của đối tượng cư trú nước mình phát sinh trên lãnh thổ phát sinh trên lãnh thổ nước ký kết Hiệp định với Việt Nam.
Kết luận Chương 2
Trên cơ sở xem xét đối tượng nộp thuế là đối tượng cư trú của nước ký kết nào, hoạt động của doanh nghiệp của một nước ký kết trên lãnh thổ nước ký kết kia có tạo nên cơ sở thường trú của doanh nghiệp đó tại nước kia không sẽ xác định được nước ký kết nào là nước cư trú, nước ký kết nào là nước có nguồn thu nhập.
Đối với từng loại thu nhập, quyền đánh thuế thuộc về một hoặc cả hai nước được quy định đối với từng loại thu nhập cụ thể. Với tư cách là nước cư trú hay nước có nguồn thu nhập, quyền đánh thuế, cũng như có nghĩa vụ trong
việc áp dụng biện pháp tránh đánh thuế hai lần của mỗi nước được quy định cụ thể tại Hiệp định.