57
các khoản chi phí để tự đối chiếu, kê khai; nhưng có bất lợi là trong thực tiễn nền kinh tế đang vận động theo cơ chế thị trường, hoạt động của doanh nghiệp theo xu hướng đa ngành, đa lĩnh vực, ngày càng phát sinh nhiều khoản chi mới không thuộc danh mục chi phí được trừ nhưng cũng không thuộc chi phí không được trừ theo quy định, dẫn đến việc hiểu và vận dụng khác nhau giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước (kiểm toán, thanh tra, thuế). Để khắc phục hạn chế này, bảo đảm rõ ràng, minh bạch, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động trong hạch toán kinh doanh, thực hiện tốt cơ chế tự khai, tự nộp, tự xác định nghĩa vụ thuế theo quy định của Luật quản lý thuế một cách có hiệu quả, Luật thuế TNDN sửa đổi đã quy định điều kiện để xác định khoản chi được trừ và liệt kê cụ thể các khoản chi không được trừ. Những khoản chi không được liệt kê thì đương nhiên doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Chính sách thuế TNDN đã quy định cụ thể 34 khoản chi không được trừ, trong đó quy định rõ phần nguyên giá vượt trên 1,6 tỷ đồng/ xe ô tô dưới 10 chỗ ngồi, TSCĐ là tàu bay dân dụng, du thuyền không được trích khấu hao (trừ dùng cho mục đích kinh doanh vận tải hành khách, du lịch, khách sạn). Đối với chi tài trợ ngoài tài trợ cho giáo dục theo quy định trước đây là khoản chi không được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp, luật lần này có bổ sung quy định không bao gồm chi tài trợ cho y tế, chi tài trợ khắc phục hậu quả thiên tai và chi tài trợ làm nhà tình nghĩa cho người nghèo.
Đối với tổ chức có thu nhập không chia, chi phí được trừ ngoài các khoản chi liên quan đến hoạt động kinh tế phát sinh thu nhập còn bao gồm cả chi phí cho các hoạt động theo mục tiêu, tôn chỉ từ thiện, xã hội ghi trong điều lệ của tổ chức mà đã được pháp luật thừa nhận.
- Điều chỉnh các khoản được trừ của thuế thu nhập cá nhân.
So với Pháp lệnh thuế đối với người có thu nhập cao, Luật thuế thu nhập cá nhân có bổ sung quy định về các khoản được trừ khi xác định thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú. Theo đó, khoản thu nhập tính thuế này được xác định bằng: tổng thu nhập chịu thuế trừ các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành, nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc và các khoản giảm trừ (giảm trừ gia cảnh và giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo).
58
Luật thuế thu nhập cá nhân cũng quy định các khoản phụ cấp, trợ cấp được trừ khỏi thu nhập, về nguyên tắc, các khoản phụ cấp này phải được tính phù hợp với qui định của Bộ Lao động và các các cơ quan chuyên ngành khác. Trường hợp các mức phụ cấp, trợ cấp chưa có qui định cụ thể thì lấy mức phụ cấp, trợ cấp qui định của đối với khu vực Nhà nước làm căn cứ để tính trừ. Các trường hợp chi trả các khoản phụ cấp, trợ cấp cao hơn phải tính vào thu nhập chịu thuế. Đối với các khoản lợi ích vật chất khác phải tính vào thu nhập chịu thuế: Các khoản chi mà xác định đuợc cá nhân trực tiếp hưởng ví dụ như thẻ sân gôn, thẻ tennis ghi rõ tên cá nhân hoặc giao cho một cá nhân sử dụng thì tính vào thu nhập của cá nhân đứng tên hoặc cá nhân sử dụng. Đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công được trừ các khoản đóng góp bắt buộc theo quy định như BHXH, BHYT và giảm trừ gia cảnh trước khi tính thuế.
2.2.2.3. Nội dung điều chỉnh về thuế suất thuế thu nhập và ưu đãi thuế
- Điều chỉnh về thuế suất đối với thuế thu nhập doanh nghiệp.
+ Giai đoạn từ năm 2007 đến 2008: Đã điều chỉnh áp dụng thống nhất mức thuế suất phổ thông 28% cho tất cả các loại hình doanh nghiệp (riêng lĩnh vực dầu khí áp dụng thuế suất từ 28% đến 50%) thay cho mức thuế suất trước đây là 32% đang áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước và 25% đang áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời bãi bỏ thuế thu nhập bổ sung áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước có tỷ suất lợi nhuận cao; bãi bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (3%, 5%, 7%) áp dụng đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Có thể bạn quan tâm!
- Điều Chỉnh Mức Giảm Trừ Chung Của Một Số Quốc Gia
- Thực Trạng Điều Chỉnh Thuế Thu Nhập Trong Điều Kiện Việt Nam Là Thành Viên
- Thực Trạng Điều Chỉnh Thuế Thu Nhập Trong Điều Kiện Việt Nam Là Thành Viên Wto
- So Sánh Gdp Thực Tế Và Số Thu Thuế Tndn Qua Các Năm
- Những Hạn Chế Khi Điều Chỉnh Thuế Thu Nhập Trong Điều Kiện Việt Nam Là Thành Viên Wto
- Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế Điều Chỉnh Thuế Thu Nhập Trong Điều Kiện Việt Nam Là Thành Viên Wto
Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.
+ Năm 2009 đến nay: Luật thuế TNDN đã điều chỉnh mức thuế suất từ 28% xuống 25%. Do tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các quốc gia ngày càng gay gắt hơn, các nước trên thế giới và trong khu vực đều chú trọng thực hiện các biện pháp cải thiện môi trường đầu tư, trong đó thuế TNDN là một trong những công cụ, giải pháp chính. Xu hướng quốc tế cho thấy nhiều nước chuyển từ ưu đãi nhiều ngành, lĩnh vực sang ưu đãi theo diện rộng, khuyến khích tổng thể nền kinh tế bằng chính sách điều tiết thuế TNDN hợp lý (hạ thuế suất), chỉ tập trung ưu đãi để phát triển một số rất ít ngành mũi nhọn và vùng đặc biệt khó khăn. Ví dụ: Trung Quốc cùng với việc hạ thuế suất thuế TNDN từ 33% xuống 25% đã xoá bỏ hầu hết các ưu đãi thuế theo lộ trình 5 năm, kể cả ưu đãi trước đây đã cấp cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Đối với lĩnh vực, Trung
59
Quốc chỉ còn ưu tiên cho doanh nghiệp có công nghệ cao đồng thời là công nghệ mới; đối với địa bàn chỉ có ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đầu tư vào các vùng tự trị, vùng khó khăn ở phía Tây; Malaysia đã hạ thuế suất thuế TNDN từ 32% xuống 28%; Philipines cũng giảm từ 35% xuống 30%.
Vì vậy, để khuyến khích tổng thể nền kinh tế, tạo thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp có điều kiện tăng tích luỹ, tích tụ, thêm nguồn lực để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh và cũng là tăng khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đã được điều chỉnh xuống 25% đồng thời với việc cải cách ưu đãi thuế.
- Điều chỉnh thuế suất đối với thuế thu nhập cá nhân:
+ Theo pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thuế thu nhập với người có thu nhập cao năm 2004, với thu nhập thường xuyên, có sự phân biệt giữa công dân Việt Nam, cá nhân khác định cư tại Việt Nam (gọi tắt là người Việt Nam) với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và công dân Việt Nam lao động, công tác ở nước ngoài (gọi tắt là người nước ngoài). Theo đó, mỗi nhóm người nộp thuế có quy định mức thuế suất riêng theo biểu thuế lũy tiến từng phần.
+ Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 đã quy định biểu thuế lũy tiến từng phần và biểu thuế toàn phần chung đối với cá nhân cư trú và mức thuế suất cụ thể theo từng loại thu nhập đối với cá nhân không cư trú cho cả người Việt Nam và người nước ngoài. Điều này đã thể hiện việc điều chỉnh thuế suất thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam năm 2007 đã được thực hiện theo đúng nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO.
- Từ năm 2007 - 2008:
+ Từ khi Việt Nam trở thành thành viên WTO vào tháng 1/2007, Việt Nam đã thực hiện bãi bỏ ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu. Đối với các doanh nghiệp khác có hoạt động xuất khẩu ngoài mặt hàng dệt may được tiếp tục bảo lưu ưu đãi đang hưởng thêm 5 năm. Theo đó, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may, doanh nghiệp được hưởng ưu đãi do sử dụng nguyên liệu trong nước nếu đáp ứng các điều kiện ưu đãi khác về thuế thu nhập doanh nghiệp (ngoài điều kiện ưu đãi do đáp ứng điều kiện về tỷ lệ xuất khẩu, do sử dụng nguyên liệu trong nước) như: sản xuất trong khu
60
công nghiệp, khu chế xuất; thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn thuộc Danh mục địa bàn ưu đãi đầu tư; sử dụng nhiều lao động... thì tiếp tục hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp tương ứng với các điều kiện doanh nghiệp đã đáp ứng cho thời gian ưu đãi còn lại. Doanh nghiệp được phép lựa chọn phương án để tiếp tục được ưu đãi thuế và thông báo với cơ quan thuế theo một trong hai phương án sau:
Phương án 1: Được tiếp tục hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp tương ứng với các điều kiện doanh nghiệp đáp ứng (ngoài điều kiện ưu đãi do đáp ứng điều kiện về tỷ lệ xuất khẩu, do sử dụng nguyên liệu trong nước) cho thời gian ưu đãi còn lại theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật trước đây về thuế thu nhập doanh nghiệp tại thời điểm được cấp giấy phép thành lập;
Phương án 2: Được tiếp tục hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp tương ứng với các điều kiện doanh nghiệp đáp ứng (ngoài điều kiện ưu đãi do đáp ứng điều kiện về tỷ lệ xuất khẩu, do sử dụng nguyên liệu trong nước) cho thời gian ưu đãi còn lại theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật trước đây về thuế thu nhập doanh nghiệp tại thời điểm điều chỉnh do cam kết WTO (ngày 11/1/2007).
+ Đối với các doanh nghiệp có đầu tư mở rộng, được tiếp tục hưởng ưu đãi đầu tư đối với dự án đầu tư mở rộng nhưng chỉ được ưu đãi về thời gian miễn giảm thuế tùy theo từng ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn đáp ứng danh mục ưu đãi đầu tư, không được hưởng ưu đãi về thuế suất thuế TNDN mà doanh nghiệp đang được hưởng.
- Giai đoạn từ năm 2009 đến nay:
+ Trước năm 2009, thuế TNDN đã quy định ba (03) mức thuế suất ưu đãi là 10%, 15% và 20% áp dụng trong thời gian tương ứng là 15 năm, 12 năm và 10 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh; Đồng thời quy định cả thời gian miễn thuế tối đa là 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế, giảm 50% số thuế phải nộp tối đa trong 9 năm tiếp theo tuỳ thuộc vào nhiều tiêu chí ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn ưu đãi theo quy định của pháp luật về đầu tư. Các chính sách ưu đãi thuế TNDN đã phát huy tác dụng tích cực trong cải thiện môi trường đầu tư trong những năm đầu mới ban hành. Tuy nhiên, trước thực tế phát triển kinh tế, xã hội thì chính sách ưu đãi này ngày càng bộc lộ nhược điểm dàn trải, phức tạp; chưa đáp ứng được yêu cầu là công cụ
61
phân bổ nguồn lực để phát triển kinh tế theo vùng và lãnh thổ, nhất là các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Do ưu đãi dàn trải vừa theo ngành nghề, lĩnh vực, vừa theo địa bàn nên các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, đều tập trung chủ yếu vào các khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc những địa bàn thuận lợi tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh.
Từ năm 2009, để khắc phục tính dàn trải, phức tạp, bảo đảm chính sách ưu đãi thuế phát huy tác dụng là công cụ tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực khuyến khích đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và một số ngành, lĩnh vực quan trọng theo chính sách phát triển của Nhà nước, Luật thuế TNDN sửa đổi đã cải cách ưu đãi thuế theo nguyên tắc giữ mức ưu đãi thuế cao nhất để không ảnh hưởng đến môi trường đầu tư nhưng duy trì khoảng cách chênh lệch đủ lớn so với mức ưu đãi thấp hơn; thu hẹp diện ưu đãi theo ngành nghề, lĩnh vực tạo tính hấp dẫn của mức ưu đãi cao, cụ thể như sau:
Áp dụng mức ưu đãi cao nhất về thuế TNDN (thuế suất 10% trong 15 năm và miễn thuế tối đa trong 4 năm, giảm 50% số thuế tối đa trong 9 năm tiếp theo) đối với các doanh nghiệp mới thành lập, hoạt động tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; doanh nghiệp mới thành lập, hoạt động trong các lĩnh vực mũi nhọn gồm: công nghệ cao, nghiên cứu và phát triển, các lĩnh vực đang được khuyến khích đẩy mạnh xã hội hoá (giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá - nghệ thuật, thể thao) và bảo vệ môi trường. Đối với các trường hợp đặc biệt thì có thể được hưởng thuế suất 10% trong thời gian dài hơn theo quy định của Chính phủ.
Áp dụng mức thuế suất 20% trong thời gian 10 năm, miễn thuế tối đa 2 năm và giảm 50% tối đa 4 năm tiếp theo đối với doanh nghiệp mới thành lập, hoạt động tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn như hiện hành. Đồng thời bỏ mức thuế suất 15% là mức thuế suất hiện hành chủ yếu áp dụng đối với các dự án thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn để vừa đơn giản, vừa tạo sức hấp dẫn của các mức ưu đãi 10% và 20% như nêu trên.
Các trường hợp đầu tư mở rộng, đầu tư theo chiều sâu sẽ được trích khấu hao nhanh hơn so với mức thông thường thay thế cho việc giảm thuế hiện nay để bảo đảm tính khả thi và minh bạch.
62
Thời gian bắt đầu tính ưu đãi thuế là năm đầu tiên có thu nhập nhưng không quá 3 năm kể từ khi có doanh thu.
+ Thuế TNDN còn quy định ưu đãi cho tất cả các doanh nghiệp: được trích đến 10% thu nhập trước khi tính thuế hàng năm để lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ, như quy định tại ddiều 45 của Luật chuyển giao công nghệ nhằm tạo thuận lợi, khuyến khích doanh nghiệp chủ động đầu tư phát triển, ứng dụng công nghệ mới, đổi mới thiết bị.
+ Ngày 27/12/2011, Chính phủ ban hành nghị định số 122/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 124/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tại Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 122/2011/NĐ-CP quy định: “Doanh nghiệp đang trong thời gian được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp do đáp ứng điều kiện ưu đãi về tỷ lệ xuất khẩu mà bị chấm dứt ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2012 do thực hiện cam kết WTO được lựa chọn để tiếp tục hưởng ưu đãi thuế cho thời gian ưu đãi còn lại tương ứng với các điều kiện thực tế doanh nghiệp đáp ứng ưu đãi đầu tư (ngoài điều kiện ưu đãi do đáp ứng điều kiện về tỷ lệ xuất khẩu, do sử dụng nguyên liệu trong nước) theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian từ ngày doanh nghiệp được cấp giấy phép thành lập đến trước ngày Nghị định số 24/2007/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực thi hành hoặc theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về thu nhập doanh nghiệp tại thời điểm bị điều chỉnh ưu đãi thuế do thực hiện cam kết WTO (hết ngày 31 tháng 12 năm 2011).
Doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo với cơ quan Thuế việc lựa chọn hưởng ưu đãi thuế quy định tại khoản này”.
Việc chấm dứt ưu đãi do đáp ứng điều kiện về tỷ lệ xuất khẩu theo cam kết WTO của Việt Nam được chia ra làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Chấm dứt ưu đãi đối với các doanh nghiệp đáp ứng điều kiện theo tỷ lệ xuất khẩu hoạt động trong lĩnh vực dệt may, do sử dụng nguyên liệu trong nước (1/11/2007);
Giai đoạn 2: Chấm dứt ưu đãi đối với các doanh nghiệp đáp ứng điều kiện theo tỷ lệ xuất khẩu (trừ hoạt động trong lĩnh vực dệt may) (31/12/2011).
63
Đối với giai đoạn 2, tại Nghị định số 122/2011/NĐ-CP có quy định: doanh nghiệp bị chấm dứt ưu đãi theo điều kiện về tỷ lệ xuất khẩu được lựa chọn để tiếp tục hưởng ưu đãi thuế cho thời gian ưu đãi còn lại tương ứng (ngoài điều kiện về tỷ lệ xuất khẩu) theo các văn bản quy phạm pháp luật về thuế TNDN với các điều kiện thực tế doanh nghiệp đáp ứng trong thời gian từ ngày doanh nghiệp được cấp giấy phép thành lập đến trước ngày nghị định số 24/2007/NĐ-CP ngày 14/02/2007 có hiệu lực thi hành hoặc tại thời điểm bị điều chỉnh ưu đãi thuế do thực hiện cam kết WTO (hết ngày 31/12/2011).
Như vậy, theo quy định tại nghị định số 122 nêu trên, các doanh nghiệp bị chấm dứt ưu đãi theo tỷ lệ xuất khẩu (hết ngày 31/12/2011) được lựa chọn ưu đãi có lợi hơn so với các doanh nghiệp dệt may đáp ứng điều kiện về tỷ lệ xuất khẩu (chấm dứt ưu đãi từ ngày 1/11/2007). Trên cơ sở quy định tại nghị định số 122, cần hướng dẫn việc chuyển đổi ưu đãi thuế TNDN kể từ năm 2012 đối với doanh nghiệp đang được hưởng ưu đãi thuế TNDN do đáp ứng điều kiện về tỷ lệ xuất khẩu (trừ doanh nghiệp đáp ứng điều kiện về tỷ lệ xuất khẩu đối với hoạt động dệt, may) mà bị chấm dứt ưu đãi thuế TNDN đối với điều kiện đáp ứng tỷ lệ xuất khẩu theo cam kết WTO. Doanh nghiệp đang trong thời gian được hưởng ưu đãi thuế TNDN do đáp ứng điều kiện ưu đãi về tỷ lệ xuất khẩu mà bị chấm dứt ưu đãi thuế TNDN do thực hiện cam kết WTO, kể từ năm 2012 được lựa chọn để tiếp tục được hưởng ưu đãi thuế TNDN cho thời gian còn lại tương ứng với các điều kiện thực tế doanh nghiệp đáp ứng ưu đãi đầu tư (ngoài điều kiện ưu đãi do đáp ứng về tỷ lệ xuất khẩu).
Xét về mặt tổng thể, việc thiết kế thuế suất và các ưu đãi thuế nêu trên đảm bảo duy trì được chính sách ưu đãi hiện hành (thậm chí còn ưu đãi cao hơn), tạo được động lực khuyến khích mới cho toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, đã khắc phục được các hạn chế, tồn tại của chính sách thuế thu nhập trước đây về tính phức tạp, dàn trải và hạn chế trong việc ưu tiên phân bổ nguồn lực cho vùng đặc biệt khó khăn. Đồng thời bảo đảm cải thiện được môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam phù hợp với xu thế của các nước trên thế giới và trong khu vực, nâng cao tính cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp và nền kinh tế.
2.2.3. Thực trạng phương pháp và quy trình điều chỉnh thuế thu nhập ở Việt Nam
Qua đánh giá các giai đoạn cải cách thuế thu nhập trong thời gian qua ta thấy xu hướng áp dụng phương pháp chủ động. Tại thời điểm năm 2003, sau 5 năm thực hiện luật thuế thu nhập doanh nghiệp ( từ 1999 đến 2003), Chính phủ
64
đã sơ kết đánh giá tình hình thực hiện Luật thuế thu nhập doanh nghiệp để trình Quốc hội sửa đổi bổ sung Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong đó, có nhiều điểm sửa đổi quan trọng được rút ra qua quá trình tổng kết đánh giá. Tuy nhiên, cũng có những lần điều chỉnh kết hợp cả phương pháp chủ động và thụ động. Sử dụng cả hai phương pháp này sẽ có những chính sách điều chỉnh thuế thu nhập hợp lý hơn. Vào năm 2007, khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, chúng ta phải thực hiện cam kết bãi bỏ các ưu đãi của Chính phủ Việt Nam trong khuyến khích xuất khẩu. Do đó, chúng ta đã phải ban hành Nghị định 24/2007/NĐ-CP của Chính phủ và thông tư 134/2007/TT-BTC của Bộ tài chính trong đó bãi bỏ các ưu đãi về thuế suất và thời gian miễn giảm thuế đối với doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu ban hành chính sách thuế để thực hiện cam kết, chúng ta cũng đã chủ động rà soát những vấn đề còn chưa phù hợp để tiếp tục hoàn thiện, đã chủ động rà soát lại danh mục các ngành nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư nhằm đảm bảo khuyến khích phân bổ nguồn lực một cách hợp lý.
Điều chỉnh thuế thu nhập phải dựa vào rất nhiều các khảo sát, các ý kiến để lựa chọn những nội dung phù hợp trước khi ban hành các văn bản điều chỉnh. Vì vậy, theo định kỳ các cơ quan quản lý đều có những sơ kết hay tổng kết việc thực hiện chính sách thuế thu nhập nhằm điều chỉnh cho kịp thời. Mặt khác, những trường hợp có những bức xúc hay bất cập về chính sách thuế thu nhập thường được các cơ quan hữu quan thu thập thông tin để điều tra chỉnh lý.
Đối với những văn bản luật do quốc hội ban hành thì giai đoạn trình ký là bước Chính phủ trình quốc hội cho ý kiến. Ủy ban tài chính – ngân sách Quốc hội sẽ họp để thẩm định trước, sau đó Quốc hội sẽ thảo luận đóng góp ý kiến. Nếu có nhiều ý kiến tham gia, ban soạn thảo sẽ nghiên cứu và báo cáo phương án giải trình, tiếp thu. Trên cơ sở dự thảo Luật đã được chỉnh sửa sau khi tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Quốc hội sẽ tiến hành bỏ phiếu thông qua dự án luật. Sau khi Quốc hội thông qua, Chủ tịch nước kí lệnh công bố luật thì luật mới có hiệu lực thi hành chính thức.
2.2.4. Tác động của điều chỉnh thuế thu nhập ở Việt Nam trong điều kiện Việt Nam là thành viên WTO
2.2.4.1. Những tác động của điều chỉnh thuế thu nhập ở Việt Nam trong điều kiện Việt Nam là thành viên WTO
- Tác động của thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu ngân sách.