Những Khó Khăn Trong Việc Giải Quyết Vấn Đề Tăng Thu Nhập Và Việc Làm Cho Số Lao Động Ra Thành Phố Làm Thuê

1978

Nguồn: [65]

Bên cạnh xu thế mở rộng khoảng cách thu nhập người dân thành thị và cư dân nông thôn, chênh lệch thu nhập giữa các nhóm nông dân ở các vùng miền cũng từng bước mở rộng. Hệ số Gini6 thu nhập thuần cư dân nông thôn tăng từ 0,2124 năm 1978 lên 0,3776 năm 2008 (xem biểu đồ 3.1). Căn cứ theo xu thế phát triển của hệ số Gini thu nhập thuần bình quân đầu người cư dân nông thôn từ khi cải cách mở cửa đến nay, thì dự tính đến năm 2010 hệ số Gini phân phối thu nhập cư dân nông thôn Trung Quốc sẽ vượt qua 0,4 – mức báo động của quốc tế. Trong khoảng thời gian từ năm 1998 – 2003, thu



6Hệ số Gini thường được sử dụng để biểu thị mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp cư dân. Số 0 tượng trưng cho sự bình đẳng thu nhập tuyệt đối (mọi người đều có cùng một mức thu nhập), số 1 tượng trưng cho sự bất bình đẳng thu nhập tuyệt đối (một người có toàn bộ thu nhập, trong khi tất cả mọi người khác không có thu nhập).

nhập của những hộ nông dân có thu nhập cao ở nông thôn duy trì sự tăng trưởng cao, còn tăng trưởng thu nhập của những hộ có thu nhập thấp lại tương đối chậm, thậm chí cá biệt một số nhóm còn xuất hiện tình trạng tăng trưởng âm. Năm 2003, thu nhập thuần bình quân đầu người của hộ có thu nhập cao nhất chiếm 20% dân số nông thôn đạt 6.346,86 NDT, tăng trưởng 7,65%, là nhóm có tốc độ tăng trưởng thu nhập nhanh nhất; còn thu nhập thuần bình quân đầu người của hộ có thu nhập thấp chiếm 20% dân số nông thôn chỉ có 865,9 NDT, tăng trưởng chỉ có 1,02% so với năm trước. Ngoài ra, trong nhóm nông dân có thu nhập cao, có đến gần 70% ở khu vực miền Đông, khu vực miền Trung chiếm 20%, còn khu vực miền Tây chỉ chiếm 10% [29]. Theo số liệu thống kê của “Niên giám thống kê nông nghiệp Trung Quốc”, thu nhập thuần của nông dân năm 2001 là 2.336, trong đó nhóm có thu nhập dưới 1000 NDT chiếm 13,22%, trong đó dưới 500 NDT là 1,6%, từ 1000 – 2000 NDT là 34,33%, từ 2000 – 3000 NDT chiếm 24,9%,

từ 3000 – 4000 NDT chiếm 12,48%, từ 4000 – 5000 NDT chiếm 11,94%, từ

5000 – 10.000 NDT chiếm 3,6%, trên 10.000 NDT là 0,16%, nếu căn cứ theo tiêu chuẩn thu nhập thần bình quân đầu người dưới 1000 NDT là nhóm có thu nhập thấp, từ 1000 – 4000 NDT là nhóm thu nhập trung bình, trên 4000 NDT là nhóm có thu nhập cao, thì tỉ lệ nhóm có thu nhập cao, trung bình và thấp của nông dân Trung Quốc là 1,5:7,2:1,3 [29]. Hiện nay, dân số nghèo đói tuyệt đối ở nông thôn Trung Quốc là khoảng 40 triệu người [26], còn khoảng 60 triệu người ở vào tình trạng no ấm ở mức thấp, hiện tượng đói nghèo và tái đói nghèo của nông dân xuất hiện tương đối phổ biến ở khu vực miền Tây và các khu vực kinh tế kém phát triển.

Biểu đồ 3.1: Biến đổi hệ số Gini cư dân nông thôn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Chênh lệch thu nhập giữa cư dân thành thị và cư dân nông thôn chênh lệch 1


Chênh lệch thu nhập giữa cư dân thành thị và cư dân nông thôn, chênh lệch giữa các nhóm nông dân ở các vùng miền là một trong những nguyên nhân chính gây ra hiện tượng chênh lệch giàu nghèo ở Trung Quốc. Chênh lệch thu nhập gia tăng là một trong những nguyên nhân tiềm ẩn gây mất ổn định xã hội và làm giảm lòng tin của người dân đối với sự lãnh đạo của Đảng ở các địa phương. Hiện tượng này nếu không được giải quyết thì sẽ có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân cũng như an ninh xã hội của Trung Quốc, làm cản trở tới việc thực hiện mục tiêu chiến lược xây dựng toàn diện xã hội khá giả được nêu ra trong Đại hội XVI ĐCS Trung Quốc năm 2002. Vì vậy, việc làm thế nào để thúc đẩy tăng thu nhập cho nông dân, đặc biệt là nhóm nông dân có thu nhập thấp ở các khu vực khó khăn, rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa cư dân thành thị và cư dân nông thôn đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của các giới trong xã hội cũng như chính quyền các cấp ở Trung Quốc.

3.2.3. Những khó khăn trong việc giải quyết vấn đề tăng thu nhập và việc làm cho số lao động ra thành phố làm thuê

Tổng lượng cung cấp sức lao động của Trung Quốc lớn, hiện có hơn 740 triệu lao động, nhiều hơn so với tổng số lao động của tất cả các quốc gia phát triển Âu, Mỹ, trong đó lao động nông thôn là gần 500 triệu người, số lao động dư thừa là 150 triệu người [21]. Nhân khẩu nông nghiệp quá nhiều

sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến thu nhập của người nông dân từ hai phương diện: Một là thu nhập nông nghiệp hạn hẹp phải chia sẻ cho một lượng nhân khẩu nông nghiệp rất lớn, dẫn đến mức thu nhập bình quân đầu người giảm xuống; Hai là tài nguyên nông nghiệp hạn hẹp phải chia sẻ cho một lượng nhân khẩu nông nghiệp lớn, tạo nên tình trạng không đủ việc làm cho nông dân.

Xí nghiệp hương trấn phát triển rầm rộ trong những năm 80 của thế kỷ XX đã thu hút hơn 100 triệu sức lao động dư thừa. Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, năng lực thu hút sức lao động của xí nghiệp hương trấn giảm mạnh. Sức lao động dư thừa ở nông thôn bắt đầu chuyển dịch với quy mô lớn sang làm kinh doanh công thương ở thành phố và thị trấn. Tổng lượng nông dân ra thành phố làm thuê có xu thế tăng trưởng liên tục, năm 1990 có hơn 30 triệu người, năm 1995 ước tính khoảng 80 triệu người, năm 2003 khoảng 99 triệu người, đến cuối năm 2008 đã có 140,41 triệu người [85].

Mặc dù trong thời gian gần đây, Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã có nhiều chính sách tích cực để giải quyết vấn đề việc làm và quyền lợị hợp pháp cho người nông dân ra thành phố làm việc, nhưng vẫn chưa xây dựng được một cơ chế hiệu quả lâu dài bảo đảm quyền lợi cho họ. Trong giai đoạn hiện nay, tiến trình đô thị hóa ở Trung Quốc còn đang lạc hậu hơn nhiều so với trình độ công nghiệp hóa, một lượng lớn sức lao động dư thừa đang ngưng trệ ở nông thôn hoặc trong nông nghiệp chưa thực hiện được sự chuyển dịch hay chuyển hóa, trói buộc việc tiếp tục đi sâu của công nghiệp hóa Trung Quốc và sự phát triển ổn định, bền vững của kinh tế Trung Quốc. Cùng với tiến trình hiện đại hóa và đô thị hóa nông nghiệp, sức lao động dư thừa ở nông thôn ngày càng nhiều, áp lực về việc làm đối với người dân do sự phát triển ngành nghề tạo ra ngày càng lớn. Nông dân ra thành phố làm việc vừa phải đối mặt với sự trói buộc của tình trạng cung lớn hơn cầu về

sức lao động, đồng thời còn gặp phải mọi sự trói buộc kết cấu của những chế độ mang tính kỳ thị.

Hiện nay, môi trường lập nghiệp và việc làm của nông dân Trung Quốc vẫn chưa lý tưởng, rào cản lập nghiệp của người nông dân còn tương đối cao, tiêu chuẩn gia nhập thị trường quá ngặt nghèo. Nông dân vẫn chưa có quyền tự do lựa chọn ngành nghề và tự do đầu tư, vẫn chưa giành được địa vị cạnh tranh bình đẳng với người dân thành phố và nhà đầu tư nước ngoài.

Bên cạnh đó, hiện nay Trung Quốc còn đang phải đối mặt với sự thiếu hụt hệ thống dịch vụ việc làm cho người nông dân, rất nhiều nông dân khó có thể kịp thời có những thông tin việc làm đầy đủ; con đường vốn để lập nghiệp của người nông dân không thông suốt, rất khó giành được những khoản đảm bảo tín dụng và những khoản vay tín dụng. Việc đào tạo về lập nghiệp và việc làm giành cho nông dân còn tương đối thiếu, chế độ đảm bảo phúc lợi xã hội giữa thành thị và nông thôn không thống nhất, tạo nên trở ngại rất lớn cho người nông dân trong việc lựa chọn ngành nghề và thay đổi công việc. Theo thống kê, tỉ lệ tham gia bảo hiểm của nông dân ra thành phố làm thuê trong 5 loại bảo hiểm xã hội lớn vẫn thấp, quyền lợi phát triển bền vững của nông dân làm thuê và thế hệ kế tiếp của họ không được bảo đảm tốt.

Mặt khác, tố chất tổng thể của người nông dân rất thấp. Do hệ thống giáo dục ở nông thôn trong một thời gian dài yếu kém đã khiến cho người nông dân thiếu kiến thức cơ bản, kỹ năng chuyên môn không cao, trình độ tổng thể thấp, ý thức tự bảo vệ mình kém, trên 85% nông dân ra thành phố làm thuê chưa từng được đào tạo kỹ năng chuyên môn [13]. Vì vậy họ rơi vào địa vị bất lợi trong cạnh tranh việc làm so với người dân thành thị, những công việc mà người nông dân tìm được chủ yếu vẫn là những công việc chân tay nặng nhọc, yêu cầu kỹ năng thấp, họ rất khó tìm được những việc làm trong những ngành có yêu cầu trình độ văn hoá cao, hàm lượng kỹ

thuật lao động cao, lương bổng hậu hĩnh. Thu nhập hàng tháng của nông dân làm công thấp hơn so với công nhân thành phố. Cùng một công việc, trong cùng một nhà máy, tiền lương của những người công nhân có hộ tịch ở nông thôn thường thấp hơn những người công nhân có hộ tịch thành phố.

Trong mấy năm gần đây, tiền lương của công chức trong thành phố được tăng lên, nhưng tiền lương của nông dân làm công trong nhiều năm không thay đổi, thậm chí còn giảm xuống. Theo kết quả điều tra thu nhập hàng tháng của nông dân làm công dưới mức 500 NDT chiếm 11,6%, từ 500

– 800 NDT chiếm 31,9%, từ 1200 – 1500 NDT chiếm 13,6%, thu nhập trên 1500 NDT một tháng chỉ chiếm 11,9. Mức thu nhập của người nông dân làm công so với mức thu nhập của người công nhân thành phố có khoảng cách chênh lệch rất rò rệt. Bình quân tiền lương hàng tháng của người nông dân làm công là 921 NDT, chỉ tương đương với 68,4% tiền lương bình quân hàng tháng của người công nhân thành phố là 1.346 NDT và 80% nông dân làm công có mức thu nhập dưới 1000 NDT, thậm chí có tới hơn 27% nông dân làm công có mức thu nhập tiền lương dưới 500 NDT [18, 163].

Giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người nông dân ra thành phố làm thuê là một con đường quan trọng để tăng thu nhập cho nông dân. Vì thế trong thời gian tới, bên cạnh những chính sách hỗ trợ cho người nông dân làm thuê lưu động hiện nay, Trung Quốc cần phải thực hiện nhiều biện pháp thiết thực hơn để đảm bảo quyền lợi và tăng thu nhập cho những người nông dân làm thuê lưu động. Trước hết phải đưa vấn đề nông dân làm thuê lưu động vào quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế quốc dân và xã hội, quán triệt phương châm “hướng dẫn hợp lý, đối xử công bằng, hoàn thiện quản lý, làm tốt phục vụ”, tăng cường xây dựng cơ chế, bảo đảm các chính sách hỗ trợ nông dân làm thuê lưu động được thực hiện đến nơi đến chốn. Mặt khác bên cạnh việc xây dựng chế độ việc làm bình đẳng giữa thành thị và nông thôn, Trung Quốc cần phải tăng cường giáo dục đào tạo đối với nông dân làm thuê

lưu động, tăng cường ngay từ đầu nguồn trình độ tổ chức của nông dân làm thuê lưu động, giảm bớt tình trạng đi ra thành phố làm thuê một cách tuỳ tiện, thúc đẩy xây dựng hệ thống an sinh xã hội cho người nông dân làm thuê lưu động, tạo điều kiện cho nông dân làm thuê lưu động dù trong trường hợp không có đất đai cũng được bảo đảm sinh hoạt ở mức tối thiểu, như vậy vừa có lợi cho nông dân làm thuê lưu động, vừa có lợi cho việc thực hiện lưu chuyển đất nông nghiệp, mở rộng quy mô kinh doanh nông nghiệp.

Ngoài ra, giải quyết vấn đề tăng thu nhập cho nông dân trong giai đoạn hiện nay còn phải đối mặt với sự yếu kém trong năng lực sản xuất tổng hợp của nông nghiệp. Đầu tư cho nông nghiệp không đủ, điều kiện vật chất của sản xuất nông nghiệp vẫn còn thiếu và yếu, sự trợ giúp của thế chế chưa mạnh, trong một thời gian ngắn sản xuất nông nghiệp khó có thể thay đổi tình hình phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu; nạn rời bỏ thôn quê ra thành thị tìm việc gia tăng khiến cho hiện tượng ruộng vườn bị bỏ hoang ngày càng nhiều, tình trạng ruộng đất không người cày cấy và sản xuất nông nghiệp suy giảm đang rất phổ biến, nhất là tại các tỉnh miền Trung – Bắc Trung Quốc, tại đây đất đai vừa kém màu mỡ, vừa bị sa mạc hoá vì thiếu nước, theo thống kê, nông dân Trung Quốc là những người sử dụng nước ít nhất thế giới, chỉ có 26% ; tố chất kỹ thuật của nông dân còn thấp, trình độ tổ chức đi vào thị trường chưa cao, khó có thể thích ứng với yêu cầu cạnh tranh thị trường ngày càng khốc liệt v.v… Đó đều là những vấn đề mà Trung Quốc cần phải giải quyết nếu muốn tiếp tục tăng thu nhập cho nông dân.

3.3. Một số gợi mở cho Việt Nam


Công cuộc đổi mới mở cửa đất nước của Việt Nam cho đến nay đã tiến hành được 23 năm. Cho dù diễn ra chậm hơn cải cách mở cửa của Trung Quốc gần một thập kỷ, song giữa cải cách mở cửa của Trung Quốc và đổi mới của Việt Nam có khá nhiều điểm tương đồng về hoàn cảnh và đặc điểm. Cải cách của Trung Quốc bắt đầu những bước đột phá từ nông nghiệp với cơ chế

khoán sản phẩm đến hộ gia đình, giải phóng nông dân khỏi những trói buộc trong thời kỳ công xã nhân dân, nông dân được trao quyền sử dụng ruộng đất, có quyền tự do quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, từ đó sức sản xuất nông nghiệp được giải phóng khiến cho kinh tế nông thôn có một diện mạo mới tốt đẹp hơn hẳn so với trước khi cải cách.

Còn với đổi mới, Việt Nam cũng đã bắt đầu đột phá từ nông nghiệp với chính sách và cơ chế khoán, từ khoán sản phẩm trong hợp tác xã đến khoán tới hộ gia đình nông dân. Lợi ích cá nhân của người lao động nông dân được coi trọng và kinh tế hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn. Phát triển kinh tế hàng hoá và áp dụng cơ chế thị trường đã đem lại luồng sinh khí mới cho các cộng đồng xã hội ở nông thôn trong đổi mới, đã tạo được động lực thực sự cho nông dân bằng việc giải quyết hợp lý các quan hệ lợi ích trong nông nghiệp và nông thôn, giúp cho bộ mặt kinh tế nông thôn có bước thay đổi to lớn. Từ một nước nhập khẩu lương thực trước khi đổi mới, Việt Nam đã nhanh chóng trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo chủ yếu trên thế giới, địa vị cơ sở của nông nghiệp được củng cố, trình độ phát triển kinh tế ở nông thôn được nâng lên nhiều, đời sống khó khăn của người nông dân bấy lâu được cải thiện rò rệt, điều này không những có ý nghĩa quan trọng đối với việc đảm bảo an ninh xã hội, củng cố vững chắc cơ sở chính quyền, mà còn nâng cao khả năng phòng tránh rủi ro của cả nền kinh tế quốc dân. Thực tế đã chứng minh, thành tựu của cải cách và đổi mới của Trung Quốc và Việt Nam gắn liền với việc chọn đúng khâu đột phá, phát hiện đúng vấn đề của phát triển và đề ra những giải pháp phù hợp để thúc đẩy phát triển.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và tiến trình đô thị hoá, công nghiệp hoá đất nước, nhiều vấn đề tam nông bức xúc cũng đã xuất hiện ở cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Kinh tế thị trường phát triển kèm theo nó là các hoạt động canh tranh, tình trạng phân hoá giàu nghèo, đói nghèo của một bộ phận nông dân, nhất là ở những

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 11/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí