lượng một số lượng đơn vị kinh doanh theo đúng thoả thuận phạm vi một lãnh thổ nhất định và không được nhượng quyền cho một bên thứ ba.
+ Nhượng quyền khởi phát (Nhượng quyền phụ - Master Franchise): Là nhượng quyền thương mại mang tính quốc tế. Nghĩa là bên nhượng quyền và bên nhận quyền đều ở các quốc gia khác nhau.
2. Các phương thức mở cửa dịch vụ phân phối theo quy định của WTO và nghĩa vụ của các nước thành viên
2.1. Các phương thức mở cửa dịch vụ phân phối theo WTO/GATS
Theo quy định của Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS), các nước muốn gia nhập WTO thì phải cam kết mở cửa dịch vụ phân phối theo bốn phương thức cung cấp dịch vụ. Bốn phương thức này được xác định trên cơ sở xuất xứ của người cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng dịch vụ đó, cũng như mức độ và hình thức hiện diện trên lãnh thổ của các bên vào thời điểm dịch vụ được chuyển giao. Trong biểu cam kết, các phương thức cung cấp dịch vụ được đánh theo số thứ tự:
Phương thức 1 - “Cung cấp qua biên giới” - Cross-border Supply. Phương thức 2 - “Tiêu dùng ở nước ngoài” - Consumption Abroad. Phương thức 3 - “Hiện diện thương mại” - Commercial Presence. Phương thức 4 - “Hiện diện của thể nhân”- Movement of natural person.
Phương thức 1: Cung cấp qua biên giới - Là phương thức theo đó dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một nước thành viên này sang lãnh thổ của một nước thành viên khác. Trong phương thức này thì chỉ có bản thân dịch vụ di chuyển qua biên giới mà không có sự di chuyển của con người. Có thể kể đến ví dụ về dịch vụ phân phối G7 của Việt Nam được cung cấp sang Nhật Bản thông qua phương thức kinh doanh nhượng quyền thương mại. Nhà cung cấp dịch vụ không thiết lập bất kỳ một hiện diện nào trên lãnh thổ nước thành viên tiêu dùng dịch vụ.
Phương thức 2: Tiêu dùng ở nước ngoài - Là phương thức theo đó người tiêu dùng của một nước thành viên di chuyển sang lãnh thổ một nước thành viên khác để tiêu dùng dịch vụ. Về bản chất, dịch vụ được cung cấp cho người tiêu dùng trên lãnh thổ nước thành viên không phải là nơi người tiêu dùng đó cư trú. Ví dụ
điển hình về phương thức này là người tiêu dùng Việt Nam di chuyển sang một nước thành viên khác của WTO là Trung Quốc để tiêu dùng dịch vụ phân phối (trong lĩnh vực bán buôn và bán lẻ ở Trung Quốc), hoặc trường hợp tài sản của người tiêu dùng dịch vụ được di chuyển qua biên giới để sử dụng các dịch vụ nước ngoài như tàu được đem đi sửa chữa ở một nước khác.
Có thể bạn quan tâm!
- Dịch vụ phân phối và những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO - 1
- Dịch vụ phân phối và những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO - 2
- Các Kênh Phân Phối Sản Phẩm Từ Nhà Sản Xuất Cho Tới Người Tiêu Dùng Cuối Cùng
- Cam Kết Của Việt Nam Trong Wto Về Dịch Vụ Phân Phối Và Những Vấn Đề Đặt Ra
- Thực Trạng Về Mở Cửa Dịch Vụ Phân Phối Ở Nước Ta Trong Thời Gian Qua Và Những Tác Động Cụ Thể.
- Thực Trạng Mở Cửa Dịch Vụ Phân Phối Kể Từ Khi Gia Nhập Wto
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
Phương thức 3: Hiện diện thương mại - Là phương thức theo đó nhà cung cấp dịch vụ của một nước thành viên di chuyển qua biên giới để thành lập hiện diện thương mại của mình ở nước ngoài nhằm tiến hành cung cấp dịch vụ thông qua hiện diện này. Sự hiện diện như vậy có thể dưới các hình thức hiện diện như công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, chi nhánh, văn phòng đại diện…(ví dụ ngân hàng Hoa Kỳ thành lập chi nhánh để kinh doanh tại Việt Nam, doanh nghiệp phân phối EU thiết lập siêu thị tại Việt Nam để phân phối hàng hoá…)
Phương thức 4: Hiện diện của thể nhân - Phương thức cung cấp dịch vụ này chỉ áp dụng cho thể nhân, khi họ có mặt tạm thời tại thị trường. Ví dụ như sự có mặt của bản thân các nhà cung cấp dịch vụ hay người làm công của (ví dụ, các cá nhân môi giới Mỹ về kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại sang Việt Nam để hoạt động).
2.2. Nghĩa vụ của các nước thành viên theo quy định của GATS.
Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS) là hiệp định đa phương đầu tiên trong lĩnh vực thương mại và đầu tư dịch vụ. Hiệp định này tạo khuôn khổ để tiến hành hoạt động thương mại dịch vụ và khởi xướng tiến trình tự do hoá. Mục tiêu của GATS là tạo ra một hệ thống các quy tắc thương mại quốc tế đáng tin cậy; đảm bảo đối xử bình đẳng và công bằng đối với tất cả các bên tham gia; thúc đẩy các hoạt động kinh tế thông qua việc cam kết chính sách và thúc đẩy thương mại và phát triển thông qua tự do hoá dần dần. Theo Điều 1 GATS, hiệp định áp dụng cho tất cả các dịch vụ được tiến hành thương mại.
Mỗi nước thành viên ít nhất cũng phải đưa ra cam kết đảm bảo mở cửa một số ngành trong thị trường dịch vụ nước mình. Các cam kết này được mô tả trong “Danh mục cam kết cụ thể” của từng nước đính kèm GATS. Bản thân GATS đề ra
những quy tắc mà chính phủ phải tuân thủ khi áp đặt các quy định có ảnh hưởng theo bất kỳ cách nào đến thương mại và sự hiện diện của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Khi tham gia WTO, trong lĩnh vực dịch vụ phân phối, các nước thành viên phải tuân thủ hai nhóm nghĩa vụ là các nghĩa vụ chung (áp dụng bắt buộc và trực tiếp cho tất cả các thành viên cũng như tất cả các ngành dịch vụ) và các cam kết cụ thể đối với lĩnh vực phân phối (mỗi nước thành viên có các cam kết riêng về từng ngành dịch vụ thể hiện trong Biểu cam kết của nước đó). Biểu cam kết bao gồm cam kết nền (còn gọi là cam kết chung. Là các cam kết áp dụng cho tất cả các ngành dịch vụ nêu trong Biểu cam kết, thường là các điều kiện về phương thức cung cấp dịch vụ như hiện diện thương mại hay hiện diện của thể nhân) và cam kết riêng cho từng ngành dịch vụ (Là các cam kết cụ thể trong từng ngành dịch vụ, bao gồm các điều kiện tiếp cận thị trường cụ thể trong từng ngành dịch vụ).
GATS quy định một tập hợp các nghĩa vụ (nguyên tắc) chung mà tất cả các quốc gia thành viên phải tuân thủ. Bao gồm: Nguyên tắc đãi ngộ Tối huệ quốc, Nguyên tắc minh bạch hoá.
Nguyên tắc đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN)
Đây là nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế, là nền tảng của hệ thống thương mại đa biên. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 2 GATS và các nước thành viên cần phải tuân thủ nghiêm túc. Nguyên tắc này yêu cầu một nước thành viên phải dành cho tất cả các nước thành viên WTO còn lại sự đối xử ưu đãi nhất đã dành cho bất kỳ nước thành viên WTO nào là đối tác thương mại của mình ngay lập tức và vô điều kiện. Sự phân biệt đối xử với các nước thứ ba bị cấm hoàn toàn. Trong GATS, áp dụng với lĩnh vực phân phối nguyên tắc này được quy định: “Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi hiệp định này, mỗi nước thành viên sẽ phải dành cho dịch vụ phân phối và các nhà cung cấp dịch vụ phân phối của bất kỳ nước thành viên nào sự đối xử không kém phần ưu đãi hơn mức dành cho dịch vụ phân phối và các nhà cung cấp dịch vụ phân phối tương tự của một nước thành viên bất kỳ một cách ngay lập tức và vô điều kiện”.
Nghĩa vụ này được áp dụng đối với tất cả các biện pháp ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ, ở tất cả các ngành, cho dù đã có cam kết cụ thể hay chưa..
Tuy nhiên trong quá trình thực thi, yêu cầu về MFN đối với các thành viên thường không thể được đáp ứng ngay khi chính thức gia nhập, tức là chưa thể mở cửa các dịch vụ đã cam kết ở mức ưu đãi tối đa cho mọi thành viên WTO ngay lập tức. Nguyên do là vào lúc gia nhập, các nước thành viên đã ký kết các hiệp định song phương hoặc hiệp định mang tính khu vực dành cho một số nước nhất định những ưu đãi đặc biệt mà không thể áp dụng rộng rãi hoặc không thể áp dụng rộng rãi ngay tức thì cho mọi thành viên WTO. Bởi nếu áp dụng ngay thì quốc gia đó sẽ đứng trước nguy cơ mất kiểm soát thị trường đối với lĩnh vực dịch vụ đó, các doanh nghiệp trong nước không thể thích nghi kịp. Xuất phát từ thực tế đó, GATS có điều khoản về khả năng miễn trừ trong việc áp dụng nghĩa vụ MFN. Điều khoản này đã cho phép các thành viên có sự linh hoạt trong phát triển quan hệ thương mại song phương, đồng thời vẫn bảo toàn được nguyên tắc chung là không được phân biệt đối xử giữa những người nước ngoài.
Phụ lục về Miễn trừ MFN của GATS chỉ cho các thành viên một cơ hội duy nhất để đưa ra các miễn trừ đối với nghĩa vụ MFN trước khi GATS có hiệu lực. Cách thức áp dụng ngoại lệ này được mô tả trong Danh mục Miễn trừ MFN của từng nước, nêu rõ những nước nào được hưởng chế độ đối xử ưu đãi hơn và chỉ rõ thời hạn ưu đãi. Về nguyên tắc, một ngoại lệ sẽ không kéo dài quá 10 năm, và sẽ phụ thuộc vào đàm phán trong tương lai. Cứ 5 năm một lần, các nước sẽ rà soát lại những điều kiện tạo nên sự cần thiết phải đưa ra ngoại lệ đó. Ngoại lệ đó phải được từ ¾ tổng số thành viên trở lên thông qua, đồng thời, cơ sở pháp lý cho sự đối xử phân biệt này sẽ được xem xét lại hàng năm theo thủ tục bãi miễn. Một ngoại lệ MFN sẽ không cho phép một nước dành cho những nước nhất định sự đối xử kém ưu đãi hơn mức quy định trong Danh mục cam kết của nước đó, mà chỉ cho phép nước này dành đối xử ưu đãi hơn mức quy định trong Danh mục cam kết cho một số thành viên hay quốc gia nêu trong ngoại lệ.
Có 3 loại ngoại lệ MFN. Trước hết, Điều II.2 GATS cho phép các thành viên duy trì một biện pháp trái với nguyên tắc MFN với điều kiện là biện pháp đó được
liệt kê trong danh sách các ngoại lệ MFN của mình và biện pháp đó phải đáp ứng các điều kiện nghiêm ngặt nêu tại Phụ lục của GATS về các ngoại lệ tại Điều II.
Theo Điều II.3 GATS, cơ chế thương mại đường biên giữa các nước WTO giáp nhau cũng là ngoại lệ MFN. Theo quy định này, một Thành viên WTO được phép dành các ưu đãi thương mại cho các nước láng giềng để tạo điều kiện thúc đẩy các trao đổi dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng nội địa giữa các vùng biên giới giáp nhau.
Ngoại lệ MFN thứ 3 (không phải liệt kê) là ngoại lệ được quy định tại Điều V GATS. Điều V đưa ra các quy định về các hiệp định hội nhập kinh tế, theo đó chỉ dành các ưu đãi thương mại cho những thành viên của các hiệp định đó.
Chẳng hạn, trong danh mục miễn trừ đối xử tối huệ quốc của Việt Nam khi gia nhập WTO có quy định, tất cả các ngành hiện diện thương mại trong đó có ngành phân phối được dành các biện pháp đối xử ưu đãi theo các Hiệp định đầu tư song phương cho tất cả các nước đã ký hiệp định đầu tư song phương với Việt Nam với thời gian áp dụng vô thời hạn nhằm thúc đẩy đầu tư vào Việt Nam.
Nghĩa vụ minh bạch hoá
Minh bạch là nguyên tắc cốt yếu để tiến tới tự do hoá đa phương. Nguyên tắc này giúp các thành viên và các doanh nghiệp xác định được những hạn chế và bảo hộ. Các nước thành viên phải thực hiện các nghĩa vụ cơ bản của nguyên tắc này là xuất bản và thông báo nhanh chóng các thay đổi pháp luật, duy trì các điểm hỏi đáp và tiến hành rà soát pháp lý một cách công bằng trong lĩnh vực dịch vụ phân phối. Tất cả những biện pháp được áp dụng rộng rãi có liên quan hay ảnh hưởng đến việc thực hiện GATS phải được công bố nhanh chóng và chậm nhất là vào thời điểm các biện pháp này có hiệu lực. Ngay cả đối với những lĩnh vực của chính phủ thuộc các Hiệp định quốc tế có liên quan hay tác động đến thương mại dịch vụ thì chính phủ của nước thành viên đó vẫn phải có nghĩa vụ thông báo. Các thành viên có thể tiến hành công bố các quy định này ở bất kỳ địa điểm nào, bằng bất kỳ biện pháp nào, và được áp dụng cho cả những biện pháp do chính quyền cấp địa phương hay cấp vùng đưa ra.
Ngoài nghĩa vụ công bố tất cả các biện pháp liên quan, các thành viên còn có nghĩa vụ thông báo nhanh chóng, ít nhất là mỗi năm một lần cho Hội đồng Thương
mại Dịch vụ về các luật lệ, quy định hay hướng dẫn hành chính mới (hay các thay đổi) trong ngành dịch vụ phân phối và bốn tiểu ngành đã có cam kết cụ thể. Các chính phủ cũng sẽ phải cam kết “nhanh chóng đáp ứng tất cả đòi hỏi về thông tin cụ thể” của các chính phủ khác về những biện pháp trên và sẽ thành lập điểm hỏi đáp.
Cam kết riêng của mỗi nước về thương mại dịch vụ thường bao gồm cam kết về hai vấn đề sau: Một là mở cửa thị trường cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài và hai là mức độ đối xử quốc gia đối với dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, các nghĩa vụ trong GATS liên quan tới quy định trong nước và một số điều kiện khác.
Đãi ngộ quốc gia (NT):
Đối với lĩnh vực phân phối, nguyên tắc này quy định rằng một khi các công ty được phép xâm nhập thị trường phân phối theo những điều kiện quy định thì họ sẽ không bị phân biệt đối xử tại thị trường nội địa đó.
Trong phạm vi một thị trường, Đãi ngộ quốc gia trong GATS chủ yếu hàm chứa ý nghĩa không phân biệt đối xử giữa người nước ngoài và trong nước. Hình thức đãi ngộ quốc gia trong GATS bao trùm cả vấn đề người cung cấp dịch vụ phân phối. Nguyên tắc này chỉ ra rằng, mỗi nước thành viên sẽ dành cho dịch vụ phân phối và nhà cung cấp dịch vụ phân phối của bất kỳ một nước thành viên nào khác sự đối xử trong tất cả các biện pháp có ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ phân phối đó không kém ưu đãi hơn mức dành cho dịch vụ phân phối và nhà cung cấp dịch vụ phân phối ở nước mình. Có 3 mức độ xem xét, kiểm tra để đảm bảo không có sự phân biệt đối xử:
- Các bên thừa nhận rằng, không thể dành cho người nước ngoài sự đối xử giống hệt như mức dành cho công dân nước đó, nhưng điều này phải là thông lệ.
- Các bên thừa nhận rằng ngay cả trong những trường hợp nhà cung cấp dịch vụ phân phối nước ngoài được hưởng sự đối xử pháp lý giống như mức dành cho những nhà cung cấp dịch vụ phân phối trong nước, cách đối xử hợp pháp này trên thực tế có thể gây bất lợi cho nhà cung cấp nước ngoài. Do vậy, “sự đối xử giống hệt về mặt hình thức hay sự đối xử khác biệt về mặt hình thức” đều được chấp nhận với điều kiện là không tạo ra sự đối xử “kém thuận lợi hơn”.
- Nếu một cách đối xử bị nghi ngờ là không đáp ứng tiêu chuẩn “không kém ưu đãi hơn”, các bên sẽ tiến hành kiểm tra, và sự đối xử “sẽ bị coi là kém ưu đãi hơn nếu nó làm thay đổi các điều kiện cạnh tranh theo hướng có lợi cho dịch vụ phân phối và nhà cung cấp dịch vụ phân phối của nước thành viên đó so với dịch vụ phân phối và nhà cung cấp dịch vụ phân phối tương tự của bất kỳ nước thành viên nào khác”.
Nghĩa vụ không phân biệt đối xử đối với dịch vụ hay nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài theo GATS không được hiểu là, yêu cầu một thành viên phải bù đắp cho “bất kỳ bất lợi nào trong cạnh tranh nảy sinh từ đặc tính nước ngoài của dịch vụ hay nhà cung cấp dịch vụ có liên quan”.(quy định này đề cập tới những tình huống mà công dân một nước không thích mua dịch vụ nước ngoài vì những lý do thuộc tâm lý cá nhân, văn hoá, chính trị, tôn giáo hay các lý do khác. Các chính phủ phải mô tả tất cả các điều kiện và tiêu chuẩn áp dụng đãi ngộ quốc gia trong danh mục cam kết của mình).
Tiếp cận thị trường:
Nguyên tắc này cho phép các công ty nước ngoài cung cấp các dịch vụ phân phối qua biên giới lãnh thổ của một nước khác mà không cần lập cơ sở ở nước đó, họ cũng có thể lập hiện diện thương mại và gửi các cán bộ chủ chốt đến các cơ sở tại nước ngoài của mình, và cũng có thể cung cấp dịch vụ ở nước mình cho những khách hàng không phải là công dân nước mình mà đến từ các nước khác.
Điều khoản tiếp cận thị trường đề cập tới 4 phương thức cung cấp, và quy định rằng một thành viên “sẽ dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ một nước thành viên nào khác sự đối xử không kém ưu đãi hơn mức đã quy định trong các điều khoản, điều kiện và hạn chế đã nhất trí và ghi rõ trong danh mục cam kết của mình”. Không giống như Hiệp định GATT đối với hàng hoá, GATS không đưa ra nghĩa vụ chung về việc dành quyền tiếp cận thị trường cho bất kỳ ai theo cả bốn phương thức cung cấp. Việc tiếp cận thị trường theo một cách thức nào đó sẽ tuỳ thuộc vào các cam kết cụ thể của một nước mô tả trong cột “tiếp cận thị trường” trong danh mục cam kết của nước đó. Điều khoản tiếp cận thị trường liệt kê một danh sách đầy đủ và ngắn gọn các hạn chế như vậy, và tất cả các biện pháp mà các
thành viên áp dụng nằm trong giới hạn đã xác định đó. Những hạn chế số lượng và pháp lý bao gồm các hạn chế về:
- Số lượng người cung cấp dịch vụ,
- Tổng giá trị của giao dịch dịch vụ hay tài sản
- Tổng số các hoạt động dịch vụ hoặc tổng số lượng dịch vụ đầu ra,
- Hạn chế về số thể nhân có thể được tuyển dụng trong một lĩnh vực dịch vụ cụ thể
- Phần trăm góp vốn của nước ngoài.
Và bất kỳ yêu cầu về những hình thức cụ thể về chủ thể pháp lý như giới hạn sự hiện diện chỉ ở mức độ chi nhánh hay liên doanh. Những biện pháp này không nhất thiết phải mang tính phân biệt đối xử về bản chất mới là trái với điều khoản về tiếp cận thị trường. Thậm chí ngay cả nếu chúng được áp dụng với các nhà cung cấp dịch vụ trong nước, những biện pháp này vẫn có tác dụng quản lý sự hiện diện của một nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Bốn biện pháp hạn chế số lượng đầu tiên có thể diễn ra dưới hình thức kiểm tra nhu cầu kinh tế. Vì GATS không quy định đưa ra định nghĩa về việc kiểm tra nhu cầu kinh tế hay chỉ ra những tiêu chuẩn để xem xét, việc áp dụng các biện pháp này có thể mang tính hạn chế và tuỳ tiện, dẫn đến việc tiếp cận thị trường trở nên khó dự đoán. Một nước sẽ được coi là cho phép tiếp cận thị trường hoàn toàn nếu như không đàm phán quyền được áp dụng bất kỳ hạn chế nào nêu trên. Lúc đó, nước này có thể ghi “không” vào cột tiếp cận thị trường trong danh mục cam kết của mình, tức là không có hạn chế thị trường nào trong ngành dịch vụ đó. Nếu một hình thức tiếp cận thị trường cụ thể được một nước nêu trong danh mục cam kết của mình thì nó phải được áp dụng trên cơ sở MFN.
Các nghĩa vụ trong của các nước thành viên trong GATS liên quan tới quy định trong nước: Các thành viên GATS có quyền ban hành các quy định mới về cung cấp dịch vụ trong phạm vi lãnh thổ của mình để thực hiện các mục tiêu chính sách quốc gia. Tuy nhiên, trong những ngành được cam kết, theo Điều VI.1 GATS, các biện pháp chung phải được quản lý “một cách hợp lý, khách quan và công bằng”.