Các Kênh Phân Phối Sản Phẩm Từ Nhà Sản Xuất Cho Tới Người Tiêu Dùng Cuối Cùng

3. Đặc điểm của dịch vụ phân phối


Là một loại dịch vụ nên DVPP cũng mang đầy đủ những đặc điểm của dịch vụ nói chung. Bên cạnh đó với vai trò của mình, DVPP cũng có một số đặc điểm khác của một lĩnh vực dịch vụ chuyên ngành. Đó là:

- DVPP mang tính chuyên môn hoá và phân công lao động cao.

Để đảm bảo cho hàng hoá đến được tay người tiêu dùng thì trong quá trình lưu thông hàng hoá phải diễn ra các hoạt động như: chuyển quyền sở hữu, đàm phán, vận động vật chất của hàng hoá, thanh toán, xúc tiến đặt hàng, chia sẻ rủi ro, tài chính, thu hồi, tái sử dụng lại bao gói…Các hoạt động này diễn ra không ngừng, liên tục như những dòng chảy riêng biệt. Các dòng chảy này kết nối các thành viên của DVPP với nhau. Mỗi dòng chảy là một tập hợp các chức năng phân phối được thực hiện bởi các thành viên tham gia vào hệ thống phân phối. Tất cả các chức năng phân phối trong mỗi DVPP đều cần được thực hiện bởi một doanh nghiệp hoặc cá nhân nào đó. Tuy nhiên mọi doanh nghiệp không nhất thiết là phải tham gia vào tất cả các dòng chảy. Các tổ chức kinh doanh nhất định chuyên môn hóa vào một hoặc một số công việc phân phối nhất định. Với sự đòi hỏi phát triển mạnh mẽ trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới diễn ra rộng rãi thì từng dòng chảy này được đầu tư tập trung thực hiện dẫn tới các hoạt động này ngày một chuyên môn hoá cao và sự phân công lao động cũng vì thế mà tăng cao. Vì thế doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu sử dụng những trung gian thương mại hoặc tổ chức bổ trợ khác để thực hiện công việc phân phối là vì họ thực hiện các chức năng phân phối hiệu quả hơn.

- DVPP vận hành theo mô hình chuỗi gồm nhiều cấp, tạo thành kênh phân phối.

Điểm đầu của một kênh phân phối luôn là những nhà sản xuất ra sản phẩm và điểm cuối của kênh phân phối đó là những người tiêu dùng cuối cùng. Quá trình hàng hoá từ nhà sản xuất tới tay người tiêu dùng có thể đi qua các kênh phân phối dài, ngắn khác nhau; trực tiếp hay gián tiếp. Cấp kênh phân phối là một trung gian bất kỳ thực hiện một công việc nào đó nhằm đưa hàng hoá và quyền sở hữu hàng hoá đến gần người mua cuối cùng. Một công ty phân phối có thể đảm nhận một hoặc tất cả các cấp trong chuỗi phân phối, tuỳ thuộc vào tiềm năng tài chính hoặc mục tiêu kinh doanh của công ty (Xem hình 1).

Hình 1. Các kênh phân phối sản phẩm từ nhà sản xuất cho tới người tiêu dùng cuối cùng

Kênh trực tiếp


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Kênh ngắn


Dịch vụ phân phối và những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO - 3

Kênh trung bình


Kênh dài


Nguồn: Bộ Công Thương - Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, WTO và hệ thống phân phối Việt Nam, NXB Lao Động (2008).

Nhà sản xuất có thể đưa hàng hoá của mình trực tiếp đến người tiêu dùng, không qua trung gian nào cả thông qua việc bán sản phẩm của mình tại các cửa hàng giới thiệu sản phẩm của công ty hay qua điện thoại…hoặc bằng cách gián tiếp là có thể thông qua các trung gian như đại lý môi giới, người bán buôn, người bán lẻ để đưa tới tay người tiêu dùng sản phẩm của mình.

- Cơ cấu ngành của dịch vụ phân phối

Cơ cấu ngành phân phối thay đổi tuỳ theo mức độ phát triển, sự khác biệt đặc trưng về cấu trúc và các chính sách của mỗi quốc gia. Song chúng ta vẫn có thể khái quát hoá một số vấn đề chung về lĩnh vực phân phối. Thứ nhất, tại hầu hết các nước, phần lớn các doanh nghiệp bán lẻ chỉ có một cửa hàng và có quyền sở hữu duy nhất. Thứ hai, một phần lớn lĩnh vực này, cả về số doanh nghiệp lẫn doanh số bán lẻ, liên quan đến bán lẻ thực phẩm. Các mặt hàng quan trọng khác là vải sợi, quần áo và giày dép, các thiết bị gia dụng và phụ tùng ô tô. Thứ ba, đặc trưng của lĩnh vực này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm một số lượng lớn, lương thấp và sử dụng nhiều lao động có trình độ thấp. Tuy nhiên, với sự thay đổi về thị hiếu của người tiêu dùng và thay đổi công nghệ thể hiện ở các sản phẩm ngày càng phức tạp, tinh

vi hơn đã tạo nên sự chuyển biến trong lĩnh vực phân phối theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, và do vậy, cũng làm tăng nhu cầu đối với lao động có trình độ cao trong ngành này.

Hiện nay đang có những thay đổi quan trọng diễn ra trong lĩnh vực phân phối, đặc biệt là tại các nước phát triển. Sự thay đổi này tác động đến cơ cấu của từng phân ngành trong lĩnh vực phân phối cũng như tầm quan trọng tương đối của mỗi phân ngành này. Trước hết, lĩnh vực phân phối ngày càng trở nên tập trung hơn. Điều này thể hiện cả ở việc xuất hiện một số doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực này và việc mối quan hệ giữa các nhà sản xuất, những người bán buôn và những người bán lẻ ngày càng gần gũi hơn, đặc biệt thông qua việc tạo ra các mạng lưới phân phối hàng hoá. Cụ thể như trong lĩnh vực bán lẻ, những cửa hàng nhỏ truyền thống bán những sản phẩm thiết yếu đã được thay thế bằng hệ thống các cửa hàng bách hoá lớn hơn. Thêm vào đó, quy mô trung bình của các cửa hàng cũng đã tăng nhiều cả về mặt doanh thu và số nhân công bán hàng, và mật độ các cửa hàng bán lẻ cũng giảm xuống. Các cửa hàng nhỏ đó không biến mất mà nhập vào thành một phần trong dây chuyền lớn các cửa hàng bán lẻ hoặc hoạt động theo thoả thuận nhượng quyền của các công ty lớn, hướng tới các phân đoạn chuyên biệt hơn trên thị trường. Thứ hai là vị thế của các nhà bán buôn truyền thống nhìn chung đã suy giảm trên thị trường, với ảnh hưởng mạnh nhất đối với phân đoạn thị trường của nhóm “hàng rẻ tiền mau hỏng”. Tuy nhiên, một vài loại hình bán buôn vẫn rất mạnh, ví dụ những hãng bán buôn chuyên cấp hàng cho những đối tượng sử dụng đặc thù như trường học, bệnh viện, những hãng cung cấp trọn gói hàng hoá trong những lĩnh vực như hàng tiêu dùng có giá trị cao và những hãng bán buôn trong những lĩnh vực vật liệu truyền thống và các sản phẩm có số lượng lớn.

- DVPP chịu sự tác động mạnh mẽ của thương mại điện tử

Sự phát triển của thương mại điện tử có thể mang lại sự thay đổi toàn diện trong lĩnh vực phân phối. Theo định nghĩa hẹp nhất phạm vi của thương mại điện tử chỉ bao gồm các sản phẩm mà có thể được giao qua mạng điện tử. Trong khi đó, định nghĩa rộng hơn lại gồm cả những sản phẩm được quảng cáo, đặt mua và thanh toán qua mạng điện tử. Thực tế có thể nhận thấy là các cửa hàng trên mạng bán hoa,

sách báo, ôtô, băng đĩa, máy tính hoặc phần mềm máy tính và thậm chí cả hàng tạp hoá cũng đã và đang xâm nhập mạnh mẽ vào hệ thống bán lẻ truyền thống thông qua việc chuyên kinh doanh một số mặt hàng hoặc nhóm sản phẩm nhất định. Điều này có được là do những ưu thế của các cửa hàng trên mạng như giảm chi phí tìm kiếm, giao dịch và phí lưu kho, đa dạng hoá khả năng lựa chọn mặt hàng, doanh thu cao, nguồn cung cấp hàng rẻ hơn và thông tin thị trường chính xác hơn. Ví dụ, việc mua sách và hàng hoá khác qua mạng cho phép dễ dàng tìm kiếm nhóm mặt hàng cần mua và người bán có thể quảng cáo và đưa thông tin tới đúng khách hàng dựa trên những sở thích của họ. Nhờ đó, những dự báo về việc bán các sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng qua mạng rất lạc quan.‌

II. Dịch vụ phân phối trong WTO và nghĩa vụ của các nước thành viên.


1. Dịch vụ phân phối trong WTO


Theo WTO, trong Danh mục Phân loại ngành dịch vụ, tài liệu mã số MTN.GNS/W/120 (hay W/120) được xây dựng trong Vòng Uruguay và phần lớn dựa trên Phân loại Danh mục sản phẩm trung tâm tạm thời của Liên Hợp Quốc (CPC), thì DVPP được phân thành bốn nhóm dịch vụ chính: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ và nhượng quyền thương mại (franchising) (Xem phụ lục 1).

1.1. Dịch vụ đại lý hoa hồng


Dịch vụ đại lý hoa hồng là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao (hoa hồng)1.

- Bên giao đại lý, bên đại lý:

o Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng dịch vụ.


1 Điều 166-Luật Thương Mại Việt Nam năm 2005

o Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ quyền cung ứng dịch vụ.

- Cách hình thức đại lý:

o Đại lý bao tiêu: Là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán trọn vẹn một khối lượng hàng hoá hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ cho bên giao đại lý.

o Đại lý độc quyền: Là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định bên giao đại lý chỉ giao cho một đại lý mua, bán một hoặc một số mặt hàng hoặc cung ứng một hoặc một số loại dịch vụ nhất định.

o Tổng đại lý mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ: Là hình thức đại lý mà bên đại lý tổ chức một hệ thống đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Tổng đại lý đại diện cho hệ thống đại lý trực thuộc. Các đại lý trực thuộc hoạt động dưới sự quản lý của tổng đại lý và với danh nghĩa của tổng đại lý.

o Các hình thức đại lý khác mà các bên thoả thuận

- Quyền sở hữu trong đại lý thương mại:

Bên giao đại lý là chủ sở hữu đối với hàng hoá hoặc tiền giao cho bên đại lý.

- Hoa hồng đại lý: Thù lao đại lý có thể được trả cho bên đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá hoặc cũng có thể tuỳ theo thoả thuận khác của hai bên.

o Trường hợp bên giao đại lý ấn định giá mua, giá bán hàng hoá hoặc giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng thì bên đại lý được hưởng hoa hồng tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá mua, giá bán hàng hoá hoặc giá cung ứng dịch vụ.

o Trường hợp bên giao đại lý không ấn định giá mua, giá bán hàng hoá hoặc giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng mà chỉ ấn định giá giao đại lý cho bên đại lý thì bên đại lý được hưởng chênh lệch giá. Mức chênh lệch giá được xác định là mức chênh lệch giữa giá mua, giá bán, giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng so với giá do bên giao đại lý ấn định cho bên đại lý.

1.2. Dịch vụ bán buôn

Theo quy định tại Nghị định số 23/2007/NĐ-CP Quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì bán buôn là hoạt động bán hàng hoá cho thương nhân, tổ chức khác; không bao gồm hoạt động bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng.

Dịch vụ bán buôn bao gồm việc bán hàng cho những người bán lẻ, những doanh nghiệp sử dụng của các ngành công nghiệp, thương mại, các tổ chức hoặc các đơn vị chuyên môn, hoặc cho những người bán buôn khác.

Dịch vụ bán buôn có đặc điểm là bán hàng với số lượng lớn, và thường là nguyên hộp, nguyên đai, nguyên kiện cho bên mua với giá thấp hơn giá bán lẻ. Giá bán buôn thường được quy định theo kiểu bậc thang theo khối lượng hàng hoá bán ra nhằm khuyến khích khối lượng đặt hàng của đại lý mà vẫn đảm bảo sự cân bằng và công bằng về giá trong hệ thống thương mại.

Các đơn vị kinh doanh dịch vụ bán buôn thường là các doanh nghiệp và cá nhân có nguồn vốn lớn, quan hệ rộng trong sản xuất kinh doanh. Các nhà bán buôn thường áp dụng hệ thống quản lý hiện đại với những chính sách bán hàng và marketing chuyên nghiệp (cấp thẻ cho người mua hàng, in catalogue quảng cáo hàng bán…) và đặc biệt giá bán buôn luôn mang tính cạnh tranh cao.

Các dịch vụ bán buôn theo danh mục CPC của Liên Hợp Quốc gồm CPC 622, 61111, 6113, 61211.

1.3. Dịch vụ bán lẻ


Cũng theo định nghĩa của Nghị định 23/2007/NĐ-CP thì bán lẻ là hoạt động bán hàng hoá trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng. Việc kinh doanh bán lẻ có thể diễn ra trực tiếp từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng hoặc có thể qua rất nhiều khâu trung gian thương mại khác nhau. Dịch vụ bán lẻ bao gồm hoạt động bán hàng tại những địa điểm nhỏ, cố định như cửa hàng hay kiốt, hoặc cũng có thể thông qua đường bưu điện với số lượng nhỏ và người mua là người tiêu dùng


1 Dự án hỗ trợ Thương mại đa biên Việt Nam II (MUTRAP II) - Đánh giá tác động của các cam kết và nghĩa vụ của Việt Nam theo Hiệp định GATS.

trực tiếp. Dịch vụ bán lẻ có thể gồm cả những dịch vụ phụ trợ như giao hàng. Trong thương mại, người bán lẻ mua hàng hoá với số lượng lớn trực tiếp từ nhà sản xuất, thông qua người nhập khẩu hoặc người bán buôn và bán cho người tiêu dùng với số lượng nhỏ hơn. Người bán lẻ giữ vai trò cuối cùng trong chuỗi cung ứng và có vai trò rất quan trọng trong chất lượng phân phối của các công ty vì họ là những người gần gũi với người tiêu dùng cuối cùng nhất.

Những doanh nghiệp/người bán lẻ bán hàng phục vụ mục đích tiêu dùng cá nhân hoặc hộ gia đình.

Danh mục CPC xác định rằng “dịch vụ chính do các nhà bán buôn và bán lẻ thực hiện là bán lại hàng hoá, kèm theo hàng loạt các dịch vụ phụ trợ có liên quan khác như: bảo quản lưu kho hàng hoá; lắp ráp, sắp xếp và phân loại đối với hàng hoá khối lượng lớn, bốc dỡ và phân phối lại đối với hàng hoá khối lượng nhỏ, dịch vụ giao hàng, dịch vụ bảo quản lạnh, các dịch vụ khuyến mãi do những người bán buôn thực hiện, và các dịch vụ liên quan đến việc kinh doanh của người bán lẻ như chế biến phục vụ cho bán hàng, dịch vụ kho hàng và bãi đỗ xe”.

1.4. Nhượng quyền thương mại


Dịch vụ nhượng quyền thương mại mang mã số CPC 8929 trong danh mục CPC.

Theo Điều 284, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 thì Nhượng quyền thương mại được định nghĩa là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hàng việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:

o Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;

o Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.

Về hình thức của nhượng quyền thương mại có thể được phân loại theo các căn cứ khác nhau.

- Nếu căn cứ theo hình thức hoạt động kinh doanh thì nhượng quyền thương mại gồm có các hình thức sau:

+ Nhượng quyền sản xuất (Processing Franchise): Là loại hình nhượng quyền cho phép bên nhận quyền được sản xuất, cung ứng ra thị trường các hàng hoá mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền. Trong nhượng quyền sản xuất, bên nhượng quyền còn cung cấp cho bên nhận quyền thông tin liên quan tới bí mật thương mại hoặc những công nghệ hiện đại, thậm chí là cả những công nghệ đã được cấp bằng sáng chế. Ngoài ra, bên nhượng quyền còn có thể hỗ trợ bên nhận quyền và một số khía cạnh như hỗ trợ đào tạo, tiếp thị, phân phối và các dịch vụ hậu mãi.

+ Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực dịch vụ (Service Franchise): Là loại hình nhượng quyền trong lĩnh vực hoạt động có tính chất dịch vụ như sửa chữa, bảo dưỡng ôtô, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ cung cấp thẻ tín dụng…Bên nhượng quyền đã xây dựng và phát triển thành công một hoặc một số mô hình dịch vụ nhất định mang thương hiệu riêng. Bên nhận quyền sẽ được cung ứng các dịch vụ ra thị trường theo mô hình và với thương hiệu của bên nhượng quyền.

+ Nhượng quyền phân phối: Trong hình thức nhượng quyền này, mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền có những điểm gần giống như mối quan hệ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối thông thường tức là bên nhượng quyền sản xuất ra các sản phẩm sau đó bán lại sản phẩm cho bên nhận quyền và bên nhận quyền sẽ phân phối trực tiếp tới người tiêu dùng dưới thương hiệu của bên nhượng quyền.

- Căn cứ vào tính chất mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền, xét về cơ bản có các hình thức:

+ Nhượng quyền đơn nhất hay nhượng quyền trực tiếp (Unit Franchising): Hình thức này được áp dụng khi bên nhượng quyền và bên nhận quyền cùng hoạt động trong phạm vi một quốc gia nhằm đảm bảo quyền kiểm soát của bên nhượng quyền đối với việc tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của bên nhận quyền.

+ Nhượng quyền mở rộng (Franchise diveloper agreement): Thực chất là bên nhượng quyền trao cho bên nhận quyền trách nhiệm mở rộng và điều hành một số

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 01/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí