Cho Thuê Tài Chính (Leasing) Tại Việt Nam


lập Quỹ bảo lãnh doanh nghiệp vừa và nhỏ. Song hoạt động của quỹ này đang nổi nên những khó khăn về vốn thành lập, đặc biệt là từ phía NHTM nhà nước. Để góp vốn thì phải sử dụng vốn huy động trung dài hạn, nhưng hiện tại các NHTM đang rất khan hiếm nguồn vốn để cho khách hàng vay nên khó có thể lấy đâu ra vốn. Hơn nữa các NHTM đang phải huy động nguồn vốn với lãi suất cao, bình quân trên 8%/ năm. Nhưng do hoạt động của quỹ là phi lợi nhuận, tức là NHTM phải chịu lỗ cho khoản vay vốn góp. Đây là bất hợp lý lớn trong hạch toán kinh doanh. Bên cạnh đó, NHTM góp vốn thành lập quỹ bảo lãnh DNVVN, song lại cho DN này vay do quỹ này bảo lãnh khác nào tình trạng “cho vay tay này bảo lãnh tay kia”. Ngoài ra, để hỗ trợ thêm về nguồn vốn cho các DNVVN, trong đó chủ yếu là khu vực kinh tế tư nhân, chính phủ đó ban hành QĐ 193/ 2001/ QĐ- TTG. Theo đó DNVVN dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả vốn vay, có giá trị tài sản thế chấp, cầm cố tài sản tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật tối thiểu 30% giá trị khoản vay và không có các khoản nợ đọng. Thuế nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức kinh tế khác sẽ được quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN tại thành phố trực thuộc TW, cấp bảo lãnh tín dụng tối đa 80% phần chênh lệch giữa giá trị khoản vay và giá trị tài sản thế chấp cầm cố của khách hàng tại các tổ chức tín dụng.

Nguyên nhân dẫn đến những trở ngại trong việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của các DNVVN bao gồm các nguyên nhân cả từ hai phía.

Từ phía ngân hàng

Mặc dù các ngân hàng không phải không nhận thấy tiềm năng to lớn của thị trường DNVVN, bên cạnh dung lượng thị trường lớn, ngày càng mở rộng, DNVVN còn phục vụ tốt mục tiêu đa dạng hoá khách hàng, giảm thiểu rủi ro cho hoạt động tín dụng của NHTM…nhưng DNVVN vẫn khó tiếp cận được với nguồn vốn này. Lý do là:


Thứ nhất, về mặt nhận thức của cán bộ ngân hàng

Đa số các ngân hàng, từ trước đến nay vốn chủ yếu kinh doanh theo hình thức bán buôn, quan hệ với khách hàng lớn. Bên cạnh đó, DNVVN nhìn chung vốn bị coi là khu vực khách hàng không ổn định, độ rủi ro cao. Vì thế phần lớn cán bộ tín dụng ngại chuyển sang làm việc với lọai hình doanh nghiệp này. Ngoài ra, do sự hiểu biết của cán bộ ngân hàng đối với khu vực DNVVN còn hạn chế. Các doanh nghiệp này có đặc điểm cố hữu như: chất lượng kinh doanh chưa cao, thông tin tài chính chưa rõ ràng ...nên đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải có một số kĩ năng đặc biệt khi thẩm định nhu cầu vốn vay. Những kĩ năng đó, đa phần các cán bộ tín dụng còn thiếu nên khó xác định đủ và đúng rủi ro của các DNVVN vì thế ngại phục vụ cho đối tượng khách hàng này.

Thứ hai, về việc chấp hành quy chế, cơ chế

Việc áp dụng các văn bản về cơ chế, quy chế, chính sách chưa sát thực với thực tế, khi thực hiện có những vấn đề phát sinh nhưng chưa được xử lí kịp thời, hiệu quả. Trong quá trình xét duyệt cũng như phán quyết, mức cho vay cũng như quá trình kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay còn nặng thủ tục hành chính, chưa sát với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhiều khi có dấu hiệu rủi ro mà không phát hiện kịp thời.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.

Đối với cơ chế tín dụng, mặc dù đã có nhiều tháo gỡ về quy chế cho vay, phía ngân hàng vẫn gặp một số rắc rối về đảm bảo tiền vay tín dụng. Phần lớn các DNVVN là khách hàng mới lần đầu quan hệ với ngân hàng, nên không đủ điều kiện để thế chấp hoặc sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay làm tài sản đảm bảo theo quy định của Nghị định 85- 2002 CP. Vì thế ngân hàng buộc phải từ chối một số khách hàng có dự án có thể cho vay được, gây ảnh hưởng không tốt đến nhận thức của doanh nghiệp.


Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh nghiệm trên thế giới và bài học cho Việt Nam - 9

Thứ ba, về thông tin

Ngân hàng không có đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp vừa và nhỏ, trước đây, chủ yếu quân hệ với các khách hàng lớn. Ngoài ra, vì chưa chú ý đến khu vực doanh nghiệp này nên ngân hàng không có một định nghĩa chính thức về DNVVN. Vì vậy ngân hàng không có cơ sở và do đó không cố số liệu theo rõi về khu vực DNVVN, không có hệ thống theo rõi về doanh nghiệp này nên không có cơ sở đánh giá kết quả phục vụ, tức là không phân định được trách nhiệm trong khi phục vụ khách hàng này.

Trong khi đó, chưa có một cơ quan nào cung cấp một cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và đầy đủ về các DNVVN. Điều này gây ra hai khó khăn cho ngân hàng là không chủ động lựa chọn khách hàng và không biết làm thế nào để tiếp cận được với các doanh nghiệp này. Vì vậy phần lớn khách hàng phải tự tìm đến ngân hàng và hầu hết các khách hàng này đều gặp khó khăn trong việc đáp ứng những điều kiện khi cho vay vốn của ngân hàng. Tức là ngân hàng chưa có một chiến lược khách hàng để chủ động lựa chọn các doanh nghiệp tốt.

Trong khi thiếu thông tin về doanh nghiệp thì các DNVVN thường gặp khó khăn về tài sản thế chấp. Một phần là do quy mô tài sản của các doanh nghiệp này còn nhỏ hẹp, một phần là do thủ tục thuê, cấp đất hiện nay còn gặp nhiều khó khăn. Điều này làm cho tài sản đảm bảo của các doanh nghiệp không đầy đủ về mặt pháp lí.

Ngoài ra, khả năng phối hợp giữa các ngân hàng và các cơ quan khác như hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức hỗ trợ kinh doanh còn chưa chú ý. Vì thế cán bộ tín dụng còn nhiều khó khăn khi tìm thông tin bổ trợ cho công tác thẩm định.

Bên cạnh các nguyên nhân trên, thì các DNVVN thường không thích thú lắm khi vay vốn ngân hàng, do thủ tục vay vốn còn có nhiều bất cập và công tác thẩm định, ra quyết định của cán bộ tín dụng có thể còn mất nhiều thời gian để tìm hiểu


thêm về thông tin của doanh nghiệp. Do vậy làm ảnh hưởng đến cơ hội đầu tư của doanh nghiệp.


Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp


Mặc dù chính phủ đã có quyết định hỗ trợ cho các DNVVN thành lập và phát triển, bên cạnh đó các ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) cũng đã không chỉ cho vay đối với khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp lớn hay doanh nghiệp quốc doanh mà còn mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận vốn cho các DNVVN. Song do những tồn tại “cố hữu” của khách hàng là doanh nghiệp tư nhân nói chung, DNVVN nói riêng. Nên việc thực hiện cho vay vẫn còn nhiều khó khăn và tập trung ở một số nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất, về quan hệ tín dụng

Xét về mặt kĩ thuật cho vay, theo nguyên tắc bảo đảm tiền vay. Hiện nay, các TCTD hoàn toàn chủ động trong quá trình cho vay, tự quyết định việc cho vay có tài sản bảo đảm (TSBĐ) tiền vay hoặc không có TSBĐ cho vay tín chấp. Tuỳ theo uy tín của khách hàng vay vốn, tuy nhiên trên thực tế nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa không có tài sản đảm bảo thế chấp khoản nợ vay hoặc tài sản dùng thế chấp chủ yếu là đất đai (thường không có đầy đủ hồ sơ pháp lí về mặt quyền sở hữu, quyền sử dụng thiếu những giấy tờ cần thiết có liên quan làm cơ sở pháp lí) để ngân hàng xem xét, tổ chức cho vay.

Đối với trường hợp tài sản đảm bảo nợ vay là máy móc, thiết bị, nhà xưởng. Việc xử lí tài sản đảm bảo khi khách hàng không trả được nợ là rất khó khăn, do giá trị tài sản đảm bảo để thanh lí thấp và rất khó bán.

Mặt khác, hệ thống thông tin, báo cáo tài chính, sổ sách kế toán thống kê của các DNVVN chưa được thực hiện đầy đủ, thiếu chính xác, minh bạch nguồn số liệu để ngân hàng phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp không đủ tin cậy.


Do vậy ảnh hưởng rất nhiều đến quyết định xem xét cho vay tín chấp của ngân hàng đối với doanh nghiệp.

Thứ hai, khả năng cạnh tranh và hiệu qủa hoạt động của các DNVVN còn thấp

Tính hiệu quả phù hợp với quy mô là một trong những ưu điểm tạo ra sự năng động cho các DNVVN. Tuy nhiên, với những diễn biến phức tạp của nền kinh tế, thị trường mà biểu hiện rõ nhất là sự biến động của thị trường tiêu thụ sản phẩm luôn là yếu tố bất lợi cho hoạt động của các DNVVN. Trong khi đó, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này thấp, do quy mô nhỏ, khả năng tài chính thấp, trình độ công nghệ lạc hậu ( phần lớn công nghệ đang sử dụng lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 3- 4 thế hệ). Tồn tại những hạn chế này tác động đến quá trình thẩm định, xem xét và quyết định cho vay. Với tồn tại là những rủi ro tiềm ẩn, ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình mở rộng và tăng trưởng tín dụng của các tổ chức tín dụng nói chung và của NHTM nói riêng trên địa bàn đối với các DNVVN.

Thứ ba, trình độ quản lí, quản trị kinh doanh thấp

Do chính sách của nhà nước khuyến khích sự phát triển các DNVVN, nên việc thành lập các doanh nghiệp này dễ dàng. Chỉ cần có vốn điều lệ và có năng lực pháp lí, hành vi pháp luật là có thể thành lập doanh nghiệp. Do vậy có nhiều chủ doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm trong kinh doanh, năng lực quản lí, quản trị còn thấp cũng thành lập doanh nghiệp để kinh doanh dẫn đến trong quá trình triển khai, xây dựng phương án, dự án sản xuất kinh doanh còn lúng túng ít khả thi và thiếu tính thuyết phục để ngân hàng đầu tư cho vay để thực hiện dự án.

Thứ tư, vốn tự có của doanh nghiệp thấp, tỉ lệ vốn tự có tham gia vào các dự án lớn thấp


Đối với những dự án đổi mới máy móc thiết bị, hiện đại hoá dây truyền sản xuất, chuyển giao công nghệ (tỉ lệ vốn tự có và giá trị tài sản cố định tham gia vào dự án nhỏ 30%). Do vậy khả năng tiềm ẩn rủi ro là rất lớn, rất khó để cho TCTD, cũng như ngân hàng tham gia đầu tư vốn vào dự án. Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến tỉ trọng tín dụng trung và dài hạn đối với các DNVVN.

Thứ năm, quan hệ trao đổi thông tin giữa các ngân hàng và doanh nghiệp chưa được khai thác hiệu quả

Quan hệ giao dịch thanh toán với ngân hàng của các DNVVN còn thấp, nhiều doanh nghiệp không mở tài khoản thanh toán ở ngân hàng hoặc thanh toán với nhau bằng tiền mặt không qua ngân hàng. Do vậy ảnh hưởng rất nhiều đến việc triển khai một số dịch vụ ngân hàng hiện đại đồng thời ảnh hưởng đến việc tiếp cận, nắm bắt thông tin doanh nghiệp, và quá trình mở rộng phát triển quan hệ ngân hàng khách hàng của TCTD và các DNVVN.

Ngoài các nguyên nhân trên thì nguyên nhân nợ quá hạn của các DNVVN đối với ngân hàng cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến việc cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.

Nợ quá hạn cao ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của DNVVN . Một đọng vốn của ngân hàng cho vay thì có bao nhiêu phần trăm là nợ quá hạn. Chính từ tỉ lệ nợ quá hạn cao, dẫn đến niềm tin của ngân hàng vào khách hàng là các DNVVN trong hoạt động kinh doanh bị giảm xuống từ đó ảnh hưởng đến việc cho vay của ngân hàng.

Ngoài ra việc hạn chế tiếp cận vốn tín dụng của DNVVN còn do tâm lí e ngại khi tiếp cận ngân hàng, đặc biệt là các NHTMQD lớn. Đó là do họ có ít thông tin về ngân hàng và tâm lí e ngại không chắc chắn vay được vốn ngân hàng. Có nhiều chủ doanh nghiệp không muốn hợp tác với ngân hàng, đơn giản chỉ vì không muốn tiết lộ

thông tin về tình hình sản suất kinh doanh của mình.


Qua việc xem xét đánh giá thực trạng tín dụng đối với DNVVN cho thấy những nguyên nhân trên là các nhân tố gây cản trở mối quan hệ tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng đối với các DNVVN. Do vậy, để mở rộng tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN, cần khắc phục những mặt cần hạn chế, tìm ra giải pháp và tạo điều kiện cho loại hình doanh nghiệp này tiếp cận vốn ngân hàng, đồng thời bảo đảm tốt cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.

2.3.2 Cho thuê tài chính (Leasing) tại Việt Nam


CTTC là phương thức tài trợ hữu hiệu cho các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện vay vốn tại ngân hàng, đây là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Trong thời hạn cho thuê tài chính thì tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nên hình thức cấp tín dụng này đạt sự an toàn cao. Ngược lại, doanh nghiệp có nhiều thuận lợi khi thuê tài chính: bên CTTC xét thấy doanh nghiệp có dự án đầu tư hiệu quả, tình tình tài chính tốt thì doanh nghiệp chỉ cần đặt cọc hay ký cược thì sẽ được xét duyệt thuê tài chính mà không cần tài sản thế chấp hay cầm cố, với sự thuận như vậy nên thời gian qua hoạt động cho thuê tài chính đã tiếp cận rất nhiều với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ thông qua tài trợ vốn.


Cho thuê tài chính xuất hiện ở Việt Nam lần đầu tiên là vào năm 1995. Đến thời điểm 1997 thì trong nước đã có 6 công ty cho thuê tài chính. Trong lĩnh vực tài chính Việt Nam được thống trị bởi hệ thống ngân hàng, nắm giữ tới 85% tổng giá trị tài sản và tài khoản cho 90% khoản vay tài trợ cho thương mại, việc thành lập thị trường cho thuê tài chính đã tạo ra một sự lựa chọn mới, giúp giảm bớt sự thiếu vốn trong các quỹ dài hạn. Có 4 ngân hàng thương mại đi tiên phong trong lĩnh vực cho thuê tài chính ở Việt Nam, nhưng chỉ có 2 ngân hàng là VietcomBank và ngân hàng Đầu tư


phát triển BIDV hoạt động mạnh trong việc thúc đẩy và sử dụng vốn trang thiết bị trong các dự án. Đóng vai trò chính trong thị trường tài chính trong nước, hai công ty cho thuê tài chính trên chiếm tỷ lệ lần lượt là 85% và 15% của tổng giá trị các hợp đồng thuê tài chính đã ký. Trước khi lệnh thu hồi nợ vốn của hai chi nhánh cho thuê tín dụng của các ngân hàng thương mại này có hiệu lực năm 1996, thì hai công ty cho thuê tài chính trên đã ký khoảng 60 hợp đồng cho thuê tài chính với tổng giá trị là 6 triệu đô la, hầu hết là dành cho các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ. Trong khi nghiên cứu gần 50 giao dịch, kết quả phân tích chỉ ra rằng có rất nhiều loại giá trị hợp đồng thuê tài chính ở Việt Nam. Các hợp đồng có giá trị trong khoảng 6,000$ đến 500,000$, giá trị trung bình cỡ khoảng 100,000 $. Và gần 90% các hợp đồng thuê tài chính đã phát hành có giá trị trong khoảng 10,000$ đến 250,000$. Thời hạn hoàn trả vốn của mỗi hợp đồng thuê tài chính từ 24 - 72 tháng, trong khoảng 25 - 36 tháng thì doanh nghiệp phải trả gần 60% giá trị vay.


Thông tư số 08/2001/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày 6/9/2001 quy định: “Vốn pháp định của công ty cho thuê tài chính cổ phần, công ty cho thuê tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng là 50 tỷ đồng; vốn pháp định của công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là 5triệu USD”. Đối với các NHTMQD thì quy định về vốn này không có gì để bàn cãi, nhưng đối với các NHTMCP thì rõ ràng sẽ gặp rất nhiều khó khăn về vốn thành lập khi muốn tiếp cận và thực hiện kinh doanh hình thức hoạt động cho thuê tài chính hiệu quả này. Cần nhận thức rằng đây là ngành kinh doanh có nhiều triển vọng, kênh dẫn vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ thiếu điều kiện vay vốn ngân hàng (Nhà nước đang ủng hộ mạnh cho các doanh nghiệp loại này, thời gian qua doanh nghiệp loại này được thành lập rất nhiều theo Luật doanh nghiệp), mang lại lợi ích thiết thực đối với nền kinh tế nói chung.

Xem tất cả 111 trang.

Ngày đăng: 03/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí