11
K42C
một quá trình liên tục và lựa chọn con đường mở cửa nhanh chóng vào thời điểm thích hợp để lại những tác động tích cực
- Mặc dù đưa ra cam kết khá thông thoáng, việc bảo hộ hợp lý cho các ngành vẫn có thể thực hiện qua những biện pháp liên quan đến quy định trong nước. Tuy nhiên, những quy định này phải đảm bảo thực thi hiệu quả quá trình cải cách trong nước để tăng năng lực cạnh tranh của ngành.
- Giới hạn về phạm vi địa lý đối với hoạt động của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài là một biện pháp hiệu quả, để thực hiện nguyên tắc tuần tự tiệm tiến do có sự khác nhau về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước giữa các miền, các vùng. Trung Quốc đã áp dụng quy định này khá phổ biến trong đó có ngành ngân hàng.
- Việt Nam nên tiếp tục tiến hành việc mở cửa dần dần thị trường tài chính với một phạm vi thích hợp và một trình tự hợp lý sao cho vừa đảm bảo nâng dần năng lực và khả năng cạnh tranh vừa thích nghi và tiến gần hơn đến những tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Sự thành công về việc xúc tiến mở cửa thị trường tài chính thời gian qua đã cho thấy rằng, sự tham gia của các hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính cũng đã mang lại lợi ích đáng kể như tăng cường sự cạnh tranh, hạ thấp chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và tăng thêm tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
- Việt Nam cần tập trung tối đa vị thế của một nước đang phát triển trong các cuộc đàm phán song phương và đa phương để được hưởng những ưu đãi hoặc nhượng bộ trong việc thực hiện nghĩa vụ với tư cách thành viên, đặc biệt trong thời gian chuyển đổi. Những nhượng bộ và những ưu đãi này sẽ là những điều kiện tốt để cơ cấu, cải tổ lại và tăng cường tiềm lực cạnh tranh sao cho có thể đứng vững trước sự du nhập của các thế lực cạnh tranh quốc tế khi thị trường được tự do hoá hoàn toàn.
- Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính không thể không gắn liền với một tiến trình cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta hiện nay. Mặc dù đã có 10 năm cải cách song hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta vẫn còn ở điểm xuất phát thấp, kém hiệu quả và vẫn mang nặng dấu ấn của thời kỳ bao cấp. Thực trạng đó không thể cứ tiếp tục duy trì thông qua việc bảo hộ bằng cách hạn chế sự thâm nhập của các hoạt động đầu tư quốc tế, mà cần phải được bảo hộ thông qua những cải cách triệt để trên cơ sở đó
12
K42C
Có thể bạn quan tâm!
- Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và lộ trình thực hiện - 1
- Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và lộ trình thực hiện - 2
- Kinh Nghiệm Và Bài Học Của Các Nước Về Việc Thực Hiện Các Cam Kết Trong Lĩnh Vực Tài Chính Ngân Hàng Sau Khi Gia Nhập Wto
- Nội Dung Các Cam Kết Về Lĩnh Vực Tài Chính Ngân Hàng Của Việt Nam Và Lộ Trình Thực Hiện
- Nội Dung Cam Kết Về Ngân Hàng Và Lộ Tr Ình Thực Hiện
- Các Cam Kết Về Mở Cửa Thị Trường Dịch Vụ Ngân Hàng Được Thể Hiện Trong Biểu Cam Kết Về Dịch Vụ Và Lộ Trình Thực Hiện
Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.
tạo ra năng lực tự bảo vệ trong điều kiện cạnh tranh quốc tế khi tiến hành hội nhập. Việc mở cửa thị trường nếu quá đột ngột mà thiếu sự cải cách đáng kể để nâng cao năng lực của hệ thống tài chính nội địa trước khi tiến hành mở cửa sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng hỗn loạn, bất lợi và mất khả năng kiểm soát của chính phủ đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính. Vì vậy, cải cách và loại bỏ dần tính hành chính bao cấp của hệ thống tài chính nội địa cho thích ứng với kinh tế thị trường trong môi trường quốc tế được coi là một trong những chiến lược mang lại sự thành công khi tham gia hội nhập.
3.2. Kinh nghiệm và bài học của Canada từ việc thực hiện các cam kết về tài chính ngân hàng sau khi gia nhập WTO.
3.2.1. Kinh nghiệm của Canada trong việc thực hiện các cam kết WTO về tài chính ngân hàng.
Canada là một trong những nước có trình độ phát triển kinh tế cao nhất thế giới (là thành viên của khối G7) với tư cách thành viên lâu đời của OECD, GATT và gần đây là NAFTA. Vì vậy, lĩnh vực dịch vụ tài chính không những phát triển và có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế Canada, mà còn có tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Năm 1997, khu vực dịch vụ tài chính ở Canada chiếm tới 5,2% GDP và thu nạp 4,5% lao động của toàn bộ nền kinh tế. Do việc mở cửa thị trường nên hoạt động dịch vụ tài chính ở Canada mang tính quốc tế hoá cao, nhiều tổ chức, công ty nước ngoài thực hiện hoạt động kinh doanh tại Canada và ngược lại, nhiều tổ chức, công ty của Canada thực hiện các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Tuy mức độ mở cửa thị trường ngày càng trở nên thông thoáng trong thời gian gần đây (đặc biệt kể từ khi ký kết hiệp định chung về thương mại dịch vụ nói chung - GATS- và hiệp định về dịch vụ tài chính nói riêng - FSA), song việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở Canada cũng không có nghĩa là tự do hoá hoàn toàn. Cụ thể,
a) Thị trường bảo hiểm
Mức độ mở cửa thị trường bảo hiểm ở Canada tỏ ra thông thoáng nhất so với các lĩnh vực khác trong hoạt động dịch vụ tài chính. Các hãng bảo hiểm nước ngoài chiếm thị phần đáng kể. Chẳng hạn, theo số liệu báo cáo của WTO, tổng số phí bảo hiểm y tế và
K42C
nhân thọ của các hãng nước ngoài chiếm 27%. Tỷ lệ này trong hoạt động bảo hiểm thương tật và bảo hiểm tài sản là 65%. Trong tổng số 132 công ty bảo hiểm nhân thọ và y tế, 55 công ty là chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Trong tổng số 132 công ty bảo hiểm nhân thọ và y tế, 55 công ty là chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Trong tổng số 196 công ty bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thương tật được thành lập theo luật liên bang thì 122 công ty là chi nhánh của các hãng nước ngoài.
Mặc dù việc mở cửa thị trường bảo hiểm đã ở mức cao song vẫn có những hạn định ràng buộc nhất định khi cam kết tham gia hiệp định FSA. Những ràng buộc này chủ yếu là những quy định về hình thức cung ứng dịch vụ, quyền sở hữu vốn hoặc quyền điều hành. Chẳng hạn, Canada đòi hỏi tất cả các dịch vụ bảo hiểm phải được thực hiện thông qua hình thức hiện diện thương mại. Một số bang như (Quebec) quy định người không phải là cư dân Canada không được phép sở hữu (gián tiếp hay trực tiếp) quá 30% cổ phiếu có quyền bầu cử nếu không có sự chấp thuận của cấp bộ trưởng. Một số băng khác không cấp giấy phép hoạt động đại lý bảo hiểm cho những người không phải là cư dân thuộc bang đó, hoặc một khoản thuế đặc biệt sẽ được áp dụng đối với khoản hoa hồng bảo hiểm thuần trả cho người không phải là đối tượng cư trú ở Canada.b) Hệ THẩNG NGâN HàNG
Trước khi tham gia ký kết hiệp định về thương mại dịch vụ tài chính giữa các nước thành viên WTO (năm 1997), cả một thời kỳ dài Canada áp dụng luật 10/25 trong lĩnh vực ngân hàng. Luật này quy định cá nhân (tổ chức) nước ngoài không được phép sở hữu quá 10% (25%) bất kỳ loại cổ phiếu nào của một ngân hàng nhất định được thành lập theo một điều khoản riêng. Bên cạnh đó, việc mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện trực tiếp từ các ngân hàng nước ngoài là điều không thể. Các ngân hàng nước ngoài muốn hoạt động tại Canada phải thành lập dưới hình thức công ty con hoạt động bằng vốn độc lập của chính công ty con đó theo một điều khoản riêng và không được tham gia vào các hoạt động dịch vụ bán lẻ. Những hạn chế này là những trở ngại đáng kể đối với sự thâm nhập của các ngân hàng nước ngoài, nhưng đồng thời lại được coi là những biện pháp an toàn cho sự hoạt động của các ngân hàng nội địa tránh được sự cạnh tranh và đảm bảo tính chủ quyền điều hành của Chính phủ trong một chừng mực nhất định.
K42C
Các ngân hàng được thành lập đều là những ngân hàng lớn có mạng lưới toàn
quốc với hơn 8000 chi nhánh, nắm giữ trên 90% tài sản của toàn bộ ngành ngân hàng và chủ yếu do người Canada sở hữu. Các công ty con của các ngân hàng nước ngoài được thành lập chỉ chiếm một thị phần nhỏ và chuyên biệt trong một số lĩnh vực như dịch vụ đầu tư, dịch vụ vay trả, thanh toán đối với các doanh nghiệp kinh doanh.
Sau hiệp định FSA, một số hạn chế đối với hoạt động của các ngân hàng nước ngoài đã được loại bỏ. Chẳng hạn luật sở hữu không quá 10% cổ phần nay được áp dụng chung cho cả cá nhân trong nước và nước ngoài, luật sở hữu không quá 25% cổ phần (đối với tổ chức hoặc nhóm cá nhân) được loại bỏ, các ngân hàng nước ngoài được phép mở chi nhánh trực tiếp tại Canada... Tuy nhiên một số hạn chế cần thiết vẫn được giữ nguyên. Chẳng hạn: chi nhánh của ngân hàng nước ngoài (ngân hàng cho vay hoặc dịch vụ) không được phép thực hiện các hoạt động thuộc về chức năng chuyên biệt của các công ty tài chính được quy định trong luật ngân hàng. Chi nhánh của ngân hàng nước ngoài thực hiện chức năng dịch vụ chỉ được phép nhận những khoản tiền gửi dưới
150.000 đô la Canada.... Một số bang còn đòi hỏi đa số thành viên của hội đồng quản trị phải là cư dân Canada hoặc quy định người nước ngoài có thể không được hưởng quyền bầu cử khi họ nắm giữ cổ phiếu của ngân hàng Canada trong một số trường hợp nhất định.
c) Thị trường chứng khoán
Canada có lẽ là nước duy nhất trong số những nước phát triển duy trì sự hoạt động của thị trường chứng khoán trên cơ sở điều luật và quản lý của các bang. Chính phủ liên bang không tham gia điều chỉnh hoặc ban hành điều luật hoạt động của thị trường chứng khoán. Vì vậy mức độ tự do hoá hoàn toàn phụ thuộc vào quy định riêng của từng bang. Tuy nhiên sự ràng buộc nói chung của đa số các bang thường là: cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại, người mua bán chứng khoán phải đăng ký để thực hiện giao dịch thông qua các nhà môi giới, ít nhất một giám đốc hoặc một cán bộ chủ chốt của một hãng kinh doanh chứng khoán phải là cư dân của Canada trong thời hạn ít nhất một năm mới đủ điều kiện cho phép thành lập.
Như vậy việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ngân hàng của Canada vẫn còn tương đối thận trọng (so với vị thế của một nước phát triển và so với các hoạt động dịch
15
vụ khác). Những hạn chế được quan tâm nhất đối với việc mở cửa thị trường là Nhà nước hạn chế về tỷ lệ sở hữu vốn, hình thức cung cấp dịch vụ, và tính chất cư trú của những người nắm giữ quyền quyết định đối với các tổ chức tài chính được phép thành lập và hoạt động tại Canada. Tất cả những hạn chế về mặt đối xử quốc gia và quốc tế nêu trên được coi là cần thiết nhằm đảm bảo một chế độ giám sát, kiểm tra có hiệu quả, duy trì sự khống chế của chính phủ đối với toàn bộ hệ thống tài chính và do đó đảm bảo sự ổn định bền vững của nền kinh tế Canada.
3.2.2. Bài học đối với Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết sau khi gia nhập WTO
- Cải cách tài chính song song với việc mở cửa dần dần thị trường dịch vụ tài chính cần phải được hỗ trợ đồng thời bằng việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, nhằm tạo ra một hành lang pháp lý ổn định, hiệu quả và minh bạch, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng đối xử quốc gia. Trong đó, đặc biệt chú ý đến những cơ sở pháp lý đảm bảo quyền giám sát kiểm tra của chính phủ và các cơ quan bảo vệ pháp luật đối với các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo sự khống chế của Nhà nước trong việc duy trì sự ổn định và sự lành mạnh của thị trường dịch vụ tài chính. Trước mắt cần xoá bỏ ngay sự đối xử ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính nhằm đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
- Ngoài ra, khi tiến hành đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, chúng ta cũng không nên loại bỏ những hạn chế cần thiết về tỷ lệ sở hữu vốn của người nước ngoài (cá nhân hoặc tổ chức), đồng thời kèm theo những ràng buộc về hình thức đầu tư và nhân sự điều hành hoặc sử dụng lao động để đảm bảo lợi ích chủ quyền quốc gia và duy trì sự kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường tài chính. Việc mở cửa thị trường nên được tiến hành rộng rãi trước hết đối với thị trường bảo hiểm. Đối với lĩnh vực ngân hàng và thị trường chứng khoán cần phải có những bước đi hết sức thận trọng, bằng những biện pháp bảo vệ thận trọng để tiến tới việc mở cửa một cách toàn diện khi đủ điều kiện cho phép.