4.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là xu hướng chung, tất yếu của toàn thế giới trong mọi kế hoạch, chương trình, mọi dự án, mọi chiến lược phát triển...
Nông nghiệp là ngành kinh tế đặc biệt - gắn chặt với tự nhiên, càng phát triển càng tác động mạnh mẽ vào tự nhiên thì vấn đề bức thiết hiện nay là phải bảo vệ môi trường và phát triển bền vững cho cả hiện tại và tương lai.
Quán triệt quan điểm này trong nghiên cứu Địa lí nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên có ý nghĩa định hướng trong công tác đánh giá thành quả nông nghiệp tỉnh cũng đề ra giải pháp đồng bộ và toàn diện để khai thác lãnh thổ một cách hợp lí, hiệu quả và bền vững.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp thu thập, tổng hợp tài liệu
Đây là phương pháp truyền thống được sử dụng trong các nghiên cứu nói chung và nghiên cứu địa lí KT - XH nói riêng. Để đề tài nghiên cứu đạt kết quả tốt thì quá trình nghiên cứu phải được thực hiện trên nhiều nguồn tài liệu, số liệu khác nhau. Đó là một quá trình đòi hỏi tính kế thừa, sự tích lũy, học hỏi những thành tựu của quá khứ để lại. Do vậy, phương pháp thu thập tài liệu, tổng hợp, hệ thống hóa lại tài liệu đã thu thập là vô cùng cần thiết, nó mang tính đúng đắn và khách quan để đánh giá vấn đề.
Các tài liệu cần thu thập tương đối đa dạng và phong phú. Từ nguồn tài liệu tới từ các cơ quan nhà nước (các cơ quan trực thuộc bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, các cơ quan thuộc sở ban ngành - phòng nông nghiệp huyện, tổng cục thống kê từ cấp Trung ương đến địa phương...), các tài liệu và báo cáo của cơ quan chức năng, các công trình nghiên cứu đã công bố, các số liệu mới cập nhật thông qua phiếu điều tra hộ nông dân sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Trên cơ sở các nguồn tài liệu đã thu thập được, tác giả đã tiến hành xử lí và so sánh, đối chiếu, phân tích sau đó tổng hợp lại một cách hoàn chỉnh để có được nguồn tài liệu đáng tin cậy nhất, đảm bảo tính thống nhất,đồng bộ và cập nhật mới nhất. Từ đó có thể đánh giá đúng thực trạng phát triển tỉnh Thái Nguyên đồng thời có nhận định, dự báo cho sự phát triển của ngành trong giai đoạn mới.
4.2.2. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
Có thể bạn quan tâm!
- Địa lý nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên - 1
- Địa lý nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên - 2
- Các Nhân Tố Kinh Tế - Xã Hội Có Ảnh Hưởng Quyết Định Tới Sự Phát Triển Và Phân Bố Nông Nghiệp
- Dân Số Và Mật Độ Dân Số Các Đơn Vị Hành Chính Tỉnh Thái Nguyên Năm 2016
- Quy Mô Và Gia Tăng Dân Số Tỉnh Thái Nguyên Giai Đoạn 2005 - 2016
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
Thực trạng phát triển, phân bố nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên được nhận biết thông qua phân tích mối liên hệ không gian, thời gian của ngành nông nghiệp cùng các phân ngành trước. Ở đây, tác giả chú ý đến các mối quan hệ tự nhiên và nhân văn, các mối liên hệ nhân quả. Các giải pháp đề xuất được tiến hành trên cơ sở so sánh,
tổng hợp (theo không gian, thời gian hoặc các đối tượng) tình hình sản xuất nông nghiệp giai đoạn 2011-2016.
4.2.3. Phương pháp khảo sát thực địa
Đây là phương pháp nghiên cứu truyền thống, không thể thiếu của Địa lí học mang tính khách quan, sử dụng nó để tích lũy, kiểm nghiệm các tài liệu thực tế, đáng tin cậy, chân thực; xây dựng ngân hàng tư liệu sống cho quá trình nghiên cứu trên một lãnh thổ.
4.2.4. Phương pháp thống kê mô tả
Trong quá trình nghiên cứu việc sử dụng phương pháp trên là vô cùng quan trọng và cần thiết đối với việc xử lí các tài liệu, số liệu đã thu thập được. Các tài liệu được tổng hợp lại, phân tích, so sánh, đối chiếu để biến chúng thành số liệu đã được thống kê thành một hệ thống tài liệu sử lí đúng đắn làm cơ sở cho nhận định mới và kết luận mang tính công trình nghiên cứu khoa học về thực trạng phát triển nông - lâm - ngư nghiệp của tỉnh Thái Nguyên.
Nghiên cứu Địa lí ngành nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên cần phân tích, so sánh, đối chiếu với các tỉnh khác trong khu vực TDMNBB, giữa các huyện trong tỉnh để thấy được những thay đổi, đặc điểm chung và riêng biệt, xu hướng phát triển cũng như mối liên hệ giữa chúng. Sau khi phân tích, so sánh cần tiến hành khâu tổng hợp, thống kê để có cái nhìn khái quát, tổng hợp nhất và đưa ra những đánh giá đúng đắn theo mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài đã đưa ra.
4.2.5. Phương pháp bản đồ, biểu đồ và hệ thống thông tin Địa lí (GIS)
Sử dụng bản đồ là phương pháp quan trọng, truyền thống và đặc trưng của Địa lí và là phương pháp không thể thay thế được trong nghiên cứu địa lí bởi vì nó là phương pháp trực quan hóa lí thuyết các bộ phận của lãnh thổ. Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã vận dụng kiến thức bản đồ, ứng dụng công nghệ GIS và Mapinfor thành lập bản đồ về hành chính, bản đồ nguồn lực ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp cũng như thực trạng sản xuất nông nghiệp.
Phương pháp trên được thực hiện trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Các kết quả nghiên cứu lại được thể hiện thông qua các biểu đồ, bản đồ với ý nghĩa là những thông tin mới và phản ánh đúng đắn các kết quả đã nghiên cứu được.
Biểu đồ sử dụng để thể hiện quy mô, cơ cấu, quá trình, động lực theo cả hai chiều không gian và thời gian, kết hợp với bản đồ biểu đồ làm cụ thể hóa sự vật và hiện tượng và giúp cho việc thể hiện các kết quả nghiên cứu trở nên trực quan, dễ hiểu và sinh động, hấp dẫn hơn.
5. Những đóng góp của đề tài
- Đánh giá được các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển, phân bố nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên để từ đó chỉ ra được thế mạnh cũng như hạn chế trong thực trạng phát triển nông nghiệp của tỉnh Thái Nguyên trong 5 năm trở lại đây.
- Phân tích thực trạng phát triển theo ngành và theo lãnh thổ.
- Đề xuất một số giải pháp để phát triển hiệu quả, đẩy mạnh chuyển dịch trong cơ cấu nội bộ ngành theo hướng tích cực và đi theo hướng sản xuất hàng hóa để mang lại hiệu quả kinh tế cao.
6. Cấu trúc của luận văn
Cấu trúc đề tài “Địa lí nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên” gồm 3 phần là phần mở đầu, phần nội dung và phần cuối kết luận. Phần nội dung gồm 4 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về Địa lí nông nghiệp
Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển và phân bố nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên.
Chương 3: Thực trạng phát triển và phân bố nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên. Chương 4 : Định hướng và giải pháp phát triển, phân bố nông nghiệp tỉnh Thái
Nguyên đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỊA LÍ NÔNG NGHIỆP
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến nông nghiệp
- Nông nghiệp là “quá trình sản xuất lương thực - thực phẩm, tơ, sợi, nguyên liệu,... cho các ngành công nghiệp thuộc dự án, thủ công mĩ nghệ, dược - mĩ phẩm và các sản phẩm khác có thể được bởi trồng trọt và chăn nuôi gia súc, gia cầm nhằm phục vụ lợi ích kinh tế, mục đích tiêu dùng và các mục đích khác tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng sản xuất của cộng đồng người sử dụng nông nghiệp”. [18]
Sang thế kỉ XXI, nông nghiệp được tiếp cận và nghiên cứu ở nhiều khía cạnh mới. Nông nghiệp được coi là một hoạt động kinh tế, cơ sở cho sự phát triển công nghiệp và công nghiệp hóa, đô thị hóa (cung cấp lương thực thực phẩm, nguyên liệu, đất, lao động, thị trường, vốn cho công nghiệp, ...), đảm bảo an ninh lương thực; là sinh kế giữ vai trò quan trọng trong giảm nghèo, là nơi nuôi dưỡng và cung cấp các nguồn tài nguyên, dịch vụ môi trường, ... [16]
- Phát triển nông nghiệp: “Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế, là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất, là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề KT - XH ở mỗi quốc gia”. Rõ ràng, nội hàm của phát triển kinh tế gồm ba khía cạnh đó là sự gia tăng GDP, GDP/người (biến đổi về lượng của nền kinh tế); sự biến đổi phù hợp với xu thế của cơ cấu kinh tế (biến đổi về chất của nền kinh tế); sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội [8].
Thông qua khái niệm và nội hàm của phát triển kinh tế, có thể hiểu phát triển nông nghiệp theo nghĩa rộng là quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi mặt của khu vực nông lâm và thủy sản, bao gồm cả sự tăng trưởng và hoàn chỉnh về quy mô GDP, GTSX, thể chế nông nghiệp, chất lượng nông sản và sự nâng cao hiệu quả KT - XH trong quá trình phát triển. Còn theo nghĩa hẹp, phát triển nông nghiệp là quá trình lớn lên, tăng tiến về GTSX của các ngành trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp (bao gồm cả sự chuyển hóa về chất và lượng), đảm bảo tốt hơn các vấn đề kinh tế và an sinh xã hội.
- Cơ cấu nông nghiệp là “tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong sản xuất nông nghiệp; có mối quan hệ hữu cơ gắn bó với nhau theo những tỉ lệ nhất định về mặt định lượng và liên quan về mặt chất. Các bộ phận kinh tế tác động qua lại lẫn nhau trong những không gian và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện KT - XH nhất định nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao [6].
Cơ cấu nông nghiệp gồm 03 bộ phận chủ yếu, đó là cơ cấu nông nghiệp theo ngành, cơ cấu nông nghiệp theo lãnh thổ và cơ cấu nông nghiệp theo thành phần kinh tế. Trong đó, cơ cấu nông nghiệp theo ngành là tổng hợp các phân ngành của nông nghiệp được sắp xếp theo một tương quan tỉ lệ nhất định. Cơ cấu ngành thể hiện số lượng, tỉ trọng của các ngành tạo nên nền nông nghiệp. Nó phản ánh trình độ phân công lao động xã hội trong nông nghiệp nói chung và trình độ phát triển của sức sản xuất nói riêng. Theo nghĩa rộng, nông nghiệp bao gồm nông, lâm, thủy sản còn theo nghĩa hẹp thì nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp.
Cơ cấu nông nghiệp theo lãnh thổ ra đời chủ yếu từ việc bố trí sản xuất nông nghiệp theo không gian địa lí. Đây là tương quan tỉ lệ giữa các đối tượng nông nghiệp trong mối quan hệ liên ngành, liên vùng gắn với nhu cầu thị trường ở lãnh thổ cụ thể nhằm sử dụng hợp lý nhất các tiềm năng, lợi thế về tự nhiên, KT - XH. [28]
Cơ cấu nông nghiệp theo thành phần kinh tế là tương quan theo tỉ lệ giữa các thành phần kinh tế tham gia vào các bộ phận hợp thành nền nông nghiệp. Việc phát triển nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào sức sản xuất, song cũng yêu cầu phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa sức sản xuất với quan hệ sản xuất, trong đó có chế độ sở hữu. Đây là kết quả của tổ chức nền nông nghiệp theo hình thức sở hữu, hay nói cách khác chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Các loại hình kinh tế kết hợp với nhau tạo nên cơ cấu thành phần kinh tế, bao gồm kinh tế Nhà nước (trung ương, địa phương); kinh tế ngoài nhà nước (tư nhân, tập thể, cá thể, hỗn hợp) và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
1.1.2. Vai trò của sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là sự hợp thành của trồng trọt và chăn nuôi, còn theo nghĩa rộng bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. Tựu chung lại, toàn bộ nền kinh tế có thể chia thành 3 khu vực, trong đó khu vực I bao gồm nông - lâm - ngư nghiệp.
Từ khi ra đời cho đến nay, nông nghiệp luôn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế nói chung và bảo đảm sự sinh tồn của loài người nói riêng. Ănghen đã khẳng định: nông nghiệp là ngành có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ thế giới cổ đại và hiện nay nông nghiệp lại càng có ý nghĩa như thế.
Vai trò to lớn của nông nghiệp được thể hiện ở các điểm sau:
- Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu cơ bản của con người. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất xuất hiện sớm nhất của xã hội loài người. Sản phẩm quan trọng hàng đầu mà con người làm ra để nuôi sống mình là lương thực. Cách đây khoảng một vạn năm, con người đã biết thuần dưỡng động vật hoang, trồng các loại cây rừng và biến chúng thành vật nuôi, cây trồng. Sự ổn định
bước đầu của dân số thế giới là từ khi loài người biết trồng trọt và tạo được cơ sở lương thực, thực phẩm.
Với sự phát triển của khoa học - kĩ thuật, nông nghiệp này càng được mở rộng, các giống cây trồng, vật nuôi ngày càng đa dạng, phong phú.
- Nông nghiệp là một trong những ngành quan trọng cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho dân cư. Nông nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho các ngành công nghiệp chế biến.
Đối với các nước đang phát triển, nguyên liệu từ nông sản là bộ phận đầu vào chủ yếu để phát triển công nghiệp chế biến và nhiều ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Một số loại nông sản, nếu tính trên đơn vị diện tích, có thể tạo ra số việc làm sau nông nghiệp nhiều hơn hoặc tương đương với số việc làm của chính khâu sản xuất ra nông sản ấy. Hơn nữa, thông qua công nghiệp chế biến, giá trị nông sản được tăng lên và đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.
- Nông nghiệp và nông thôn là thị trường rông lớn tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Đối với các nước đang phát triển, nông nghiệp và nông thôn chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và cơ cấu ngành nghề của dân cư. Đời sống dân cư nông thôn càng được nâng cao, cơ cấu kinh tế nông thôn càng đa dạng và đạt tốc độ tăng trưởng cao thì nông nghiệp và nông thôn sẽ trở thành thị trường tiêu thụ rộng lớn và ổn định của nền kinh tế quốc dân.
- Nông nghiệp là ngành cung cấp khối lượng hàng hóa lớn để xuất khẩu, mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước. Nông sản dưới dạng thô hoặc qua chế biến là bộ phận hàng hóa xuất khẩu chủ yếu của hầu hết các nước đang phát triển. Trong cơ cấu kim ngạch xuất khẩu, tỉ lệ nông sản xuất khẩu - nhất là dưới dạng thô có xu hướng giảm đi, nhưng về giá trị tuyệt đối thì vẫn tăng lên. Vì vậy, trong thời kì đầu của quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước, nông nghiệp là ngành xuất khẩu chủ yếu, tạo ra tích lũy để tái sản xuất và phát triển nền kinh tế quốc dân.
- Nông nghiệp là khu vực cung cấp lao động phục vụ công nghiệp và các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội. Đây là xu hướng có tính qui luật trong phân công lại lao động xã hội. Tuy nhiên, khả năng di chuyển lao động từ nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác còn tùy thuộc vào việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp và việc phát triển công nghiệp và dịch vụ ở thành thị và cả việc nâng cao chất lượng nguồn lao động ở nông thôn.
- Nông nghiệp trực tiếp tham gia vào việc giữ gìn cân bằng sinh thái, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Quá trình phát triển nông nghiệp gắn liền với việc
sử dụng thường xuyên đất đai, nguồn nước, các loại hóa chất..., với việc trồng và bảo vệ rừng, luân canh cây trồng, phủ xanh đất trống, đồi trọc... Tất cả điều đó đều có ảnh hưởng lớn đến môi trường. Chính việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái còn là điều kiện để sản xuất nông nghiệp có thể phát triển và đạt hiệu quả cao.[28]
1.1.3. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội, với những đặc điểm riêng biệt. Nghiên cứu các đặc điểm của nó có vai trò quan trọng trong việc xác định phương hướng phát triển, hoạch định chính sách và tiến hành các biện pháp quản lí có hiệu quả.
- Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt. Trong nông nghiệp, đất đai trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất như là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế. Thường thì không thể có sản xuất nông nghiệp nếu không có đất đai. Qui mô sản xuất, trình độ sản xuất, mức độ thâm canh, phương hướng sản xuất và cả việc tổ chức lãnh thổ nông nghiệp lệ thuộc nhiều vào số lượng và chất lượng đất đai. Trong quá trình sử dụng, đất đai ít bị hao mòn, bị hỏng đi như các tư liệu sản xuất khác.
- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật, cơ thể sống. Trong khi đối tượng sản xuất của công nghiệp phần lớn là các vật vô tri, vô giác thì nông nghiệp có đối tượng sản xuất là các cây trồng, vật nuôi, nghĩa là các cơ thể sống. Cây trồng vật nuôi sinh trưởng và phát triển theo các qui luật sinh học và đồng thời cũng chịu tác động rất nhiều của qui luật tự nhiên (điều kiện ngoại cảnh như thời tiết, khí hậu và môi trường). Quá trình sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp là quá trình chuyển hóa về chất và năng lượng thông qua sự sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi. Quá trình phát triển của sinh vật tuân theo các qui luật sinh học không thể đảo ngược.
- Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ. Tính thời vụ là nét đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là ngành trồng trọt, bởi vì một mặt, thời gian lao động không trùng với thời gian sản xuất của các loại cây trồng và mặt khác, do sự biến đổi của thời tiết, khí hậu, mỗi loại cây trồng có sự thích ứng khác nhau.
Thời gian lao động là khoảng thời gian mà lao động có tác động trực tiếp tới việc hình thành sản phẩm. Còn thời gian sản xuất được coi là thời gian sản phẩm đang trong quá trình sản xuất. Việc sử dụng lao động và các tư liệu sản xuất không giống nhau trong suốt chu kì sản xuất là một trong các biểu hiện của tính thời vụ. Tính thời vụ thể hiện không những ở nhu cầu về đầu vào như lao động, vật tư, phân bón, mà còn ở cả khâu thu hoạch, chế biến, dự trữ và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Chu kì sản xuất các loại sản phẩm nông nghiệp tương đối dài và không giống nhau. Trong nông nghiệp thời gian sản xuất bao giờ cũng dài hơn thời gian lao động cần thiết để tạo ra sản phẩm đó, kể cả sản phẩm trồng trọt và sản phẩm chăn nuôi.
- Nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, nhất là vào đất đai và khí hậu. Đặc điểm này bắt nguồn từ chỗ đối tượng lao động của nông nghiệp là cây trồng và vật nuôi. Chúng chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi có đủ 5 yếu tố cơ bản của tự nhiên là nhiệt độ, ánh sáng, nước, không khí và chất dinh dưỡng, trong đó yếu tố này không thể thay thế yếu tố kia. Các yếu tố trên kết hợp và cùng tác động với nhau trong một thể thống nhất. Chỉ cần thay đổi một yếu tố là có một loạt các kết hợp với nhau và dĩ nhiên, điều đó sẽ ảnh hưởng tới nông nghiệp.
Mỗi yếu tố và sự kết hợp của các yếu tố thay đổi từ nơi này sang nơi khác. Những thay đổi ấy phụ thuộc vào tính qui luật theo lãnh thổ và theo thời gian (mùa). Đất, khí hậu, nước với tư cách là tài nguyên nông nghiệp quyết định khả năng (tự nhiên) nuôi trồng các loại cây, con cụ thể trong từng lãnh thổ và khả năng áp dụng các qui trình kĩ thuật để sản xuất ra nông sản.[28]
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp
1.1.4.1. Vị trí địa lí kết hợp cùng khí hậu, thổ nhưỡng qui định sự có mặt của các hoạt động nông nghiệp
Vị trí địa lí của lãnh thổ với đất liền, với biển, với các quốc gia trong khu vực và nằm trong một đới tự nhiên nhất định sẽ có ảnh hưởng tới phương hướng sản xuất, tới việc trao đổi và phân công lao động trong nông nghiệp.
Thí dụ, vị trí của Việt Nam nằm ở khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa đã qui định nên nông nghiệp nước ta là một nền nông nghiệp nhiệt đới với các sản phẩm đặc trưng là lúa gạo, cà phê, cao su, điều... Các nông sản trao đổi trên thị trường thế giới tất nhiên chủ yếu là sản phẩm của nền nông nghiệp nhiệt đới.
1.1.4.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là tiền đề cơ bản để phát triển và phân bố nông nghiệp.
Từ những đặc điểm đặc thù của sản xuất nông nghiệp, có thể thấy rằng sự phát triển và phân bố của ngành này tùy thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Sự phân đới nông nghiệp trên thế giới phụ thuộc vào sự phân đới tự nhiên. Sự tồn tại của các nền nông nghiệp gắn liền với các đặc trưng của từng đới tự nhiên. Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp, trong việc sử dụng lao động và các nguồn lực khác, trong việc trao đổi sản phẩm cũng chịu sự tác động của điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Tính bấp bênh, không ổn định của nông nghiệp phần nhiều là do tai biến thiên nhiên và thời tiết khắc nghiệt. Mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ có thể sinh trưởng và phát triển trong những điều kiện tự nhiên nhất định. Rõ ràng, các nhân tố tự nhiên có vai trò đặc biệt quan trọng, trong đó nổi lên hàng đầu là đất, nước và khí hậu.