Thứ năm, việc xác định di chúc chung có hiệu lực vào thời điểm bên sau cùng chết làm ảnh hưởng đến thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của người chết trước.
Thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu hết 10 năm đó mà người kia vẫn còn sống, thì thời hiệu khởi kiện xin chia thừa kế đối với phần di sản của người chết trước cũng không còn. Nếu vì lý do nào đó, chẳng hạn nội dung di chúc chung vi phạm pháp luật, có dấu hiệu lừa dối, giả mạo… mà người thừa kế không biết để khởi kiện kịp thời (do di chúc chung chưa được công bố), đến khi người sau cùng chết mà thời hiệu khởi kiện không còn, thì quyền lợi của người thừa kế của người chết trước cũng như những người thừa kế hợp pháp của cả vợ, chồng có được bảo vệ không, cũng chưa được pháp luật qui định rõ.
Thứ sáu, ảnh hưởng đến sự bảo toàn giá trị của khối di sản là tài sản chung. Khi tình trạng không phân chia di sản kéo dài quá lâu, khiến cho di sản là tài sản chung không còn nguyên vẹn do bị tiêu huỷ, giảm sút giá trị, hoặc do sự đầu tư, sửa chữa, tu bổ làm tài sản tăng giá trị, thì hậu quả của nó càng hết sức phức tạp, việc xác định giá trị của tài sản chung trong trường hợp này sẽ rất khó khăn, sẽ càng tạo ra nhiều tranh chấp khác rất khó giải quyết.
Như vậy, thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật của di chúc chung, không đơn giản chỉ là căn cứ để phân chia di sản theo di chúc chung, mà sẽ ảnh hưởng tới thời hiệu khởi kiện, quyền thừa kế di sản của người chết trước, xác định phạm vi những người thừa kế hợp pháp, xác định giá trị di sản của người chết và những biến động của nó… Qua đó, sẽ làm cho việc chia thừa kế theo di chúc chung trở nên khó khăn, phức tạp thêm.
Thực chất nguyên nhân của những mâu thuẫn này xuất phát từ việc pháp luật quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết, trong khi quyền thừa kế phát sinh từ thời điểm mở thừa
kế. Vì vậy cần phải cân nhắc, sửa đổi quy định về thời điểm có hiệu lực pháp luật của di chúc chung một cách chặt chẽ, hợp lý hơn.
3.2.6. Bất cập về vấn đề chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung
Di chúc chung có nhiều tính chất khác biệt so với di chúc cá nhân. Dù vậy, nhà làm luật vẫn không dự liệu các căn cứ riêng biệt đương nhiên làm chấm dứt di chúc chung.
Có thể bạn quan tâm!
- Sửa Đổi, Bổ Sung, Hủy Bỏ Di Chúc Chung Của Vợ, Chồng
- Bất Cập Về Quyền Lập Di Chúc Chung Của Vợ, Chồng Và Nguyên Tắc Tự Nguyện Cá Nhân Trong Việc Lập Di Chúc.
- Bất Cập Về Hình Thức Của Di Chúc Chung Của Vợ, Chồng.
- Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành - 11
- Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành - 12
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Như đã biết, di chúc chung được hình thành dựa trên hai yếu tố quan trọng của quan hệ vợ, chồng. Đó là tình cảm vợ, chồng và tài sản chung của vợ, chồng. Nếu hai yếu tố này mất đi thì di chúc chung cũng không còn ý nghĩa. Trên thực tế sẽ phát sinh nhiều tình huống pháp lý khiến cho hai yếu tố trên bị thay đổi, như trường hợp: các bên vợ chồng ly hôn; chia tài sản chung trong khi hôn nhân đang tồn tại; một bên mất tích hoặc bị toà án tuyên bố chết và người còn lại đã kết hôn với người khác, sau đó người bị tuyên bố chết còn sống trở về, nhưng không thể tái hợp quan hệ vợ chồng; hoặc sau khi có di chúc chung, vợ chồng lại định đoạt tài sản chung vào một mục đích khác, như tặng cho, bán; vợ hay chồng còn sống đã kết hôn với người khác hoặc có những quyết định làm ảnh hưởng tới hiệu lực hoặc sự tồn tại của di chúc chung (như quyết định sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ phần di chúc chung liên quan tới phần tài sản của họ trong tài sản chung của vợ, chồng…). Đây là những trường hợp dẫn đến việc chấm quan hệ vợ - chồng, hoặc chấm dứt tình trạng sở hữu chung đối với tài sản, hoặc trực tiếp làm chấm dứt di chúc chung. Tuy vậy, những tình huống này không được dự liệu của pháp luật, nên sẽ dẫn tới sự lúng túng trong việc thực thi di chúc chung, vì không ai dám chắc là di chúc chung có đương nhiên bị mất hiệu lực, trong những tình huống đó hay không.
3.2.7. Bất cập về hoa lợi, lợi tức phát sinh khi di sản chung chưa chia
Khi di chúc chung của vợ, chồng đã được lập mà có một trong hai người chết, người còn lại sẽ quản lý, sử dụng phần tài sản chung đấy. Vấn đề
đặt ra là nếu có hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung đã được định đoạt bởi di chúc thì phải quyết định ra sao khi mà chỉ còn một người còn sống. Phần hoa lợi, lợi tức phát sinh trên có thể là nhờ công sức của người còn lại gây dựng nên mà cũng có khi nó tự phát sinh. Đối với trường hợp do người còn lại đóng góp sức lao động tạo ra thì có thể thuộc về phần tài sản riêng của họ, nhưng khi mà hoa lợi, lợi tức tự phát sinh từ tài sản chung của vợ chồng thì rõ ràng là người còn sống không thể tự mình quyết định toàn bộ được, bởi nó có phần tài sản của người chết và pháp luật dân sự cũng chỉ cho phép người còn sống định đoạt phần tài sản của mình. Vấn đề này cũng chưa được pháp luật làm rõ.
3.3. Dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định như thế nào về di chúc chung của vợ, chồng?
Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) quy định nhiều vấn đề mới, có tính đột phá trong công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực dân sự. Trong đó, các quy định về thừa kế đã khắc phục được những hạn chế, vướng mắc của Bộ luật Dân sự năm 2005 về thừa kế mà cụ thể là thừa kế theo di chúc chung của vợ chồng:
Về sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ và thời điểm có hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng:
Theo khoản 2 Điều 664 Bộ luật Dân sự năm 2005, khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia. Quy định này đã làm hạn chế quyền của người vợ hoặc người chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc liên quan đến phần tài sản của mình, vì phải có sự đồng ý của người chồng hoặc người vợ, nếu người kia không đồng ý thì không thể thực hiện. Dự thảo Bộ luật Dân sự quy định: Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. Nếu người kia không đồng ý thì mỗi người có quyền lập di chúc liên quan đến phần tài sản
của mình. Nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình. Quy định này nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt ý chí của vợ và chồng trong việc lập di chúc chung và cũng có quyền lập di chúc liên quan đến tài sản của mỗi bên, nếu bên kia không đồng ý. Trong trường hợp một bên chết, thì vợ hoặc chồng còn sống có quyền sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình. Quy định tại Điều 665 Dự thảo đã thay đổi căn bản quyền của vợ và chồng trong việc định đoạt tài sản của mình, không bị phụ thuộc vào quy định quá hình thức như cùng quy định tại Điều 664 Bộ luật Dân sự năm 2005. Điều 664 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định tại khoản 2: “Khi vợ chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chungthì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến tài sản của mình”.
Đối với thời điểm có hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng, Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết. Trong thực tiễn có rất nhiều trường hợp người vợ hoặc chồng chết trước, người còn lại tiếp tục sống trong thời gian dài, cho đến khi người còn lại chết thì người được hưởng di sản thừa kế của người đã chết trước mới được hưởng phần di sản thừa kế. Để khắc phục vấn đề này và nhằm đảm bảo quyền của người thừa kế, Điều 669 Dự thảo Bộ luật Dân sự quy định: “Trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó”. Đây là quy định nhằm bảo đảm quyền của người thừa kế vào thời điểm vợ hoặc chồng chết trước mà có di chúc chung. Việc chia tài sản sau khi
người cuối cùng là vợ hoặc chồng chết chỉ áp dụng khi có thỏa thuận của vợ, chồng có di chúc chung.
3.4. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về di chúc chung của vợ, chồng
3.4.1. Có nên tiếp tục thừa nhận di chúc chung của vợ, chồng?
Di chúc chung của vợ chồng đã được thừa nhận trong pháp luật Việt Nam từ khá lâu. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu cho rằng đây là một chế định mà việc vận dụng rất phức tạp.
Trong báo cáo thẩm tra dự án sửa đổi Bộ luật Dân sự, Ủy ban pháp luật Quốc hội nêu: “Thực tế trong cuộc sống, vợ chồng thường không mất cùng một ngày, nếu hai người có di chúc chung thì người còn sống sẽ bị hạn chế quyền quyết định về tài sản của mình. Nếu pháp luật cho phép người còn sống được sửa đổi di chúc liên quan đến phần tài sản của mình thì ý chí của người chết trước đã được thể hiện trong di chúc chung sẽ không được tôn trọng. Ngược lại nếu pháp luật không cho phép sửa đổi di chúc thì vô hình dung đã hạn chế quyền tự do di chúc của công dân. Thực tiễn thi hành Bộ luật Dân sự cho thấy việc giải quyết tranh chấp có liên quan đến di chúc chung của vợ, chồng là phức tạp, khó bảo đảm được quyền lợi chính đáng của người đã chết và người còn sống.”
Việc duy trì di chúc chung của vợ, chồng trong Bộ luật Dân sự năm 2005 không phải là không có cơ sở. Thứ nhất, di chúc chung của vợ chồng là một loại di chúc khá phổ biến trong xã hội Việt Nam và tồn tại từ bao đời nay. Nếu bỏ hẳn di chúc chung của vợ, chồng chúng ta đã tự bỏ đi một thói quen gắn liền với văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong quá trình hội nhập, việc thay đổi pháp luật để phù hợp với xu hướng chung của thế giới là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên chúng ta hội nhập chứ không hòa tan, việc bỏ hẳn di chúc chung của vợ chồng không khác gì chúng ta đã bị hòa tan vào tình trạng
chung của thế giới, không còn đặc thù riêng của Việt Nam. Hơn nữa, việc thừa nhận di chúc chung, pháp luật có thể đạt được mục đích tốt đẹp là hướng các bên trong quan hệ thừa kế cần quan tâm hơn việc tăng cường tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình. Thứ hai, di chúc chung của vợ, chồng là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ người vợ, chồng còn sống trong nhiều trường hơp. Ví dụ A và B là hai vợ chồng cùng sống trong một căn nhà và có con là C và D. Nếu A chết mà giữa A và B không để lại di chúc riêng thì sau khi A chết, C và D có thể yêu cầu B chia thừa kế căn nhà. Tương tự như vậy nếu A không có di chúc chung với B mà định đoạt cho C và D phần tài sản của mình thì C và D cũng được yêu cầu chia thừa kế căn nhà mà B đang ở cho đến khi B chết. Hiện nay chúng ta đang “cào bằng” vợ hay chồng của người chết với con và cha, mẹ của người chết trong hàng thừa kế thứ nhất theo hướng khá bất lợi cho người vợ hay chồng còn sống. Với di chúc chung của vợ, chồng, chúng ta có thể bảo vệ người vợ hay chồng còn sống này cho đến khi họ chết. Đây là một ưu điểm quan trọng của di chúc chung của vợ chồng.
3.5.2. Giữ quy định về di chúc chung của vợ chồng
Việc bãi bỏ qui định di chúc chung của vợ, chồng là không khả thi, vì đây là một thực tiễn pháp lý và tục lệ, đã tồn tại từ lâu trong xã hội Việt Nam. Vấn đề cần thiết hiện nay là, làm sao vẫn duy trì di chúc chung nhưng phải hạn chế tối đa những rắc rối, phức tạp do việc thừa loại di chúc này mang lại. Cụ thể:
3.5.2.1. Cần tách vấn đề di chúc chung của vợ, chồng ra khỏi quy định chung về di chúc cá nhân và thiết kế thành một mục mới trong Bộ luật Dân sự năm 2005
Tuy di chúc chung của vợ, chồng cũng có những đặc điểm giống như một di chúc thông thường do cá nhân lập ra, nhưng di chúc chung còn có những đặc thù, như: thứ nhất, do ý chí của hai cá nhân là vợ - chồng cùng
tham gia định đoạt, dựa trên quan hệ hôn nhân đang còn hiệu lực của hai người đó; thứ hai, dùng để định đoạt khối tài sản chung của vợ, chồng; thứ ba vợ, chồng có thể thỏa thuận các nội dung của di chúc chung; thứ tư, chỉ được sửa đổi khi có sự đồng của vợ chồng (nếu cả hai đều còn sống), và được sửa đổi riêng phần di chúc trong giới hạn phần tài sản của mình trong khối tài sản chung (nếu một bên đã chết)…
Như đã xác định, di chúc chung cũng là một loại di chúc, nên phải tuân thủ các quy định chung về điều kiện có hiệu lực của di chúc, về thời điểm phát sinh quyền thừa kế của cá nhân, tổ chức, về thời hiệu khởi kiện thừa kế, về thực hiện việc phân chia tài sản theo di chúc, về quyền thừa kế của những người thừa kế bắt buộc… Ngoài ra, còn có những nội dung khác liên quan đến thời hiệu khởi kiện, sự bảo toàn giá trị khối di sản là tài sản chung cho đến khi chia di sản theo di chúc chung, quyền thừa kế của những người thừa kế bắt buộc, quyền khởi kiện để xin tòa án tuyên bố di chúc vô hiệu do được lập không hợp pháp.
Bởi vậy, cần quán triệt quan điểm tách quy định về di chúc chung thành một mục riêng nhằm đảm bảo tính đặc thù của các quy định này, đồng thời dự liệu đầy đủ các nội dung khác nhau của di chúc chung. Cụ thể, quy định về di chúc chung sẽ được thiết kế thành một mục riêng - mục 2 của Chương thừa kế theo di chúc trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo đó, Chương thừa kế theo di chúc sẽ có hai mục là: mục 1 quy định chung về di chúc và thừa kế theo di chúc; mục 2 quy định về di chúc chung của vợ, chồng. Bên cạnh đó, các quy định về di chúc chung của vợ chồng phải được quy định sao cho nhất quán với các quy định khác có liên quan.
3.5.2.2. Nội dung và mục đích của di chúc chung
Xuất phát từ những bất cập trong nội dung di chúc chung như phân tích ở trên, học viên cho rằng khi sửa đổi vấn đề nội dung của di chúc chung phải giải quyết các yêu cầu sau:
- Quy định quyền lập di chúc chung của vợ chồng, khi hôn nhân đang còn tồn tại, phải tuân thủ các qui định chung về năng lực lập di chúc, các yêu cầu để di chúc có hiệu lực cũng tương tự như di chúc của cá nhân;
- Quy định về công nhận quyền tự do lập di chúc chung, những cũng phải thừa nhận quyền tự định đoạt của cá nhân trong việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung của vợ chồng.
- Quy định về hình thức bắt buộc đối với di chúc chung: chỉ nên thừa nhận di chúc bằng văn bản.
- Quy định các căn cứ làm đương nhiên chấm dứt di chúc chung của vợ
chồng
3.5.2.3. Sửa đổi, bổ sung quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc
chung theo hướng dự liệu cả trường hợp có thỏa thuận và không thỏa thuận giữa vợ, chồng về thời điểm này.
Theo đó, Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2005 được sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau:
Điều 668 (sửa đổi, bổ sung): Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng:
“Khi có một bên vợ hoặc chồng chết trước mà vợ, chồng không có thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung thì chỉ phần di chúc chung có liên quan đến phần di sản của người chết trước được định đoạt trong di chúc chung có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc chung về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản được định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng chỉ được phân chia từ thời điểm đó. Việc thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không làm ảnh hưởng đến quyền thừa kế của những người thừa kế hợp pháp khác của các bên vợ, chồng trong việc yêu cầu tòa án bảo vệ quyền thừa kế hợp pháp của mình khi một bên vợ hoặc chồng chết trước”.