Bất Cập Về Hình Thức Của Di Chúc Chung Của Vợ, Chồng.


pháp lý của di chúc, có thể dẫn đến nhiều hệ lụy không thể lường trước được như sự thông đồng giữa vợ, chồng lập di chúc giả tạo để che đậy những hành vi trái pháp luật

Xâm phạm đến quyền lợi của người thừa kế bắt buộc là một bên còn lại.

Theo quy định tại điều 699 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: những người thuộc diện thừa kế bắt buộc (cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con chưa thành niên và con đã thành niên mà không có khả năng lao động) có quyền được hưởng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật, nếu họ không được hưởng hoặc hưởng ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật. Nếu di chúc chung của vợ, chồng chỉ để lại thừa kế cho một số người mà không dành phần di sản cho những người thừa kế bắt buộc thì những người đó có được chia thừa kế bắt buộc không? Đây là điều Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa làm rõ, dẫn đến nhiều vướng mắc trong việc thực thi pháp luật. Việc vợ, chồng lập di chúc chung làm phát sinh những phức tạp, trong trường hợp vợ hoặc chồng chết trước, do vậy người vợ hoặc chồng còn sống là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Vì vậy, việc quy định cho vợ, chồng lập di chúc chung làm phức tạp mối quan hệ dân sự trong việc nhận di sản thừa kế.

3.2.3. Bất cập về hình thức của di chúc chung của vợ, chồng.

Di chúc có thể được lập bằng văn bản và nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định khá cụ thể về di chúc miệng, tuy nhiên nó rõ ràng nếu đó là cá nhân, còn đối với vợ, chồng thì sao? Liệu vợ, chồng có thể cùng nhau lập di chúc miệng?

Cũng theo Điều 651 quy định: “Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”. Do đó vợ chồng không thể cùng nhau lập di chúc bằng miệng vì các lý do sau:


Thứ nhất, muốn lập di chúc chung, vợ chồng phải có sự bàn bạc, thống nhất ý chí chung trước khi cùng nhau lập di chúc. Trong tình trạng một trong hai người đang bị cái chết đe dọa, lúc này sẽ không có sự thống nhất quan điểm rõ ràng, việc lập di chúc chung sẽ không thể phản ánh đầy đủ và trung thực ý chí cá nhân của mỗi người. Tình trạng này dễ dẫn đến việc một bên quyết định nội dung di chúc chung theo ý chí chủ quan của mình mà không có sự thống nhất ý chí với người kia.

Thứ hai, thủ tục lập di chúc miệng trực tiếp, trước mặt hai người làm chứng, không cho phép hai người phát biểu ý chí cùng một lúc mà phải từng người phát biểu. Vậy sự thể hiện ý chí chung sẽ được biểu đạt bằng cách nào? Nếu từng người trình bày riêng ý nguyện của mình thì thực ra đó là di chúc cá nhân. Nếu một người đại diện trình bày ý chí chung và người kia chấp nhận toàn bộ thì cũng giống như đã ủy quyền lập di chúc, như vậy vi phạm nguyên tắc lập di chúc. Hơn nữa, trong hoàn cảnh khi bị cái chết đe dọa, để một người phát biểu ý chí chung cho người kia nghe và hoàn toàn đồng ý là không hợp lý.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

Thứ ba, Sau ba tháng kể từ ngày di chúc miệng mà một người chết và một người còn sống thì toàn bộ di chúc miệng hoặc một phần di chúc miệng liên quan tới người còn sống có còn giá trị thi hành nữa hay không? Vì theo khoản 1, Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định: “Sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.” Trong khi đó, di chúc chung chỉ có hiệu lực khi cả hai người đều đã chết.

Thứ tư, đang lúc hoàn cảnh bối rối trước sự sống, chết của cả hai người, việc tiếp nhận và ghi nhớ ý nguyện của mỗi người có thể sẽ không đầy đủ, không chính xác. Việc chứng minh được tính đồng thuận, tự nguyện của cả hai vợ chồng trong trường hợp này sẽ không bảo đảm được tính trung thực, khách quan.

Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành - 9


Chính vì thế việc cho phép vợ chồng lập di chúc chung bằng miệng sẽ trở nên phức tạp và không bảo đảm sự an toàn pháp lý cho quyền lợi chính đáng của chính người lập di chúc lẫn người thừa kế hợp pháp của họ.

Hơn nữa, điều 655 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về lập di chúc viết tay của cá nhân: “Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc”. Về mặt logic, hai người không thể cùng một lúc viết cùng một nội dung trên cùng một tờ di chúc. Vậy phải từng người viết xong, rồi sau đó từng người ký tên vào bản di chúc đó. Vấn đề đặt ra là di chúc do một người viết và người kia chỉ ký tên hoặc điểm chỉ thì có hiệu lực pháp luật không? Nếu chỉ một người viết toàn bộ di chúc rồi cả hai cùng ký vào bản di chúc thì không đảm bảo thủ tục lập di chúc viết tay, dễ dẫn đến sự giả mạo chữ ký để lập di chúc chung. Nhưng nếu cả hai cùng nhau và thay nhau viết bằng chữ viết của chính mình để định đoạt tài sản chung thì không thể thực hiện được trên thực tế, như vậy sẽ giống với di chúc cá nhân. Làm như vậy giống như là viết hộ di chúc, nên sẽ phải tiến hành theo một thủ tục khác.

Tóm lại pháp luật cần phải quy định hình thức riêng cho di chúc chung của vợ, chồng chứ không thể áp dụng giống như di chúc cá nhân.

3.2.4. Bất cập về quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung

Việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng phải dựa trên nguyên tắc nhất trí. Khoản 2, Điều 664 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định: “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Tuy nhiên nếu một bên muốn thay đổi quyết định trong di chúc chung mà bên kia không đồng ý thì các bên cũng không được quyền thay đổi. Quy định này đã tạo ra một số bất cập sau:


Thứ nhất, quy định này xâm phạm tới quyền tự do định đoạt của cá nhân đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cũng như vi phạm nguyên tắc tự nguyện trong việc lập di chúc. Nếu một bên bắt buộc phải sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung đã lập nếu không được sự đồng ý của người kia thì việc sửa đổi, bổ sung đó sẽ không được pháp luật chấp nhận. Quy định này đã xâm phạm quyền tự do định đoạt của người có tài sản và xâm phạm tới sự tự nguyện trong việc lập di chúc. Điều đó cũng không công bằng đối với bên muốn được sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung.

Thứ hai, quy định này thiếu nhất quán khi không cho phép một bên tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc khi vợ, chồng còn sống nhưng lại cho phép một bên còn sống có quyền sửa đổi, bổ sung phần di chúc liên quan đến tài sản của mình khi một bên vợ hoặc chồng đã chết; trong khi đó việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung của vợ, chồng cần đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa vợ và chồng. Do đó nếu đã cho phép một bên được tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi một bên đã chết thì cũng cần công nhận quyền của một bên được tự mình sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ phần di cúc chung liên quan đến tài sản của mình, khi không có sự đồng ý của bên kia.

Thứ ba, pháp luật quy định như vậy cũng chưa dự liệu hết được các khả năng di chúc phải sửa đổi, bổ sung mà không thể tìm được sự đồng thuận của vợ, chồng do vợ, chồng đã mâu thuẫn và sống ly thân, ly hôn hoặc do một bên vợ hoặc chồng còn sống nhưng đã bị tuyên bố mất tích, bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị mất trí…khiến cho họ không còn thể hiện được ý chí của cá nhân nữa.

Tóm lại, việc quy định của luật về vấn đề sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung nhằm thể hiện tính thống nhất ý chí giữa vợ và chồng, tuy nhiên vẫn cần phải tôn trọng sự tự nguyện của cá nhân khi lập di chúc vì vậy, nên quy định cho phép một bên vợ hoặc chồng được phép sửa đổi, bổ


sung, thay thế, hủy bỏ nội dung của di chúc liên quan đến phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung của hai vợ chồng trong trường hợp một bên không đồng ý sửa đổi, trong một số trường hợp cần thiết vừa để tôn trọng ý chí tự nguyện định đoạt tài sản của cá nhân, đồng thời cũng thể hiện tính nhất quán của các quy định pháp luật.

3.2.5. Bất cập về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung

Vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc chung vốn đã gây ra rất nhiều tranh cãi giữa các chuyên gia pháp luật thừa kế, khi góp ý cho Dự thảo Bộ luật Dân sự năm 2005. Sở dĩ có sự bất đồng này là do thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không trùng với thời điểm mở thừa kế.

Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2005 qui định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Giải pháp này đã đơn giản hóa việc thực thi di chúc chung (vì chỉ chia thừa kế theo di chúc chung một lần), so với giải pháp của Bộ luật Dân sự năm 1995. Mặc dù vậy, việc xác định di chúc chung của vợ chồng phát sinh tại thời điểm người sau cùng chết lại phát sinh những vấn đề phức tạp khác sau đây:

Thứ nhất, việc phải chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay chồng chết trước sẽ gây khó khăn cho các bên liên quan và cho cả các cơ quan tiến hành tố tụng.

Thực tế cho thấy, một cá nhân có thể có nhiều sản nghiệp, bao gồm tài sản riêng của cá nhân và phần tài sản chung với vợ hay chồng, chưa kể có thể họ còn có nhiều vợ hay nhiều chồng hợp pháp khác. Nếu xác định di chúc chung chỉ có hiệu lực dựa vào “cái chết sau cùng”, thì sẽ có ít nhất hai lần “chia thừa kế” đối với di sản của người vợ hay người chồng chết trước. Lần thứ nhất là chia thừa kế đối với phần di sản là tài sản riêng hoặc những tài sản chung khác không định đoạt trong di chúc chung, dựa vào thời điểm mở thừa


kế. Lần thứ hai là chia thừa kế phần di sản định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng, khi di chúc chung có hiệu lực.

Trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước mà vừa có di sản định đoạt bằng di chúc chung, vừa có tài sản riêng không lập di chúc hoặc có những tài sản chung không được đưa vào di chúc chung hoặc một phần tài sản liên quan đến phần di chúc chung bị vô hiệu thì có thể dẫn đến hậu quả là khối di sản của người đó được chia thừa kế làm nhiều lần. Điều này dẫn đến hệ quả là người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước sẽ phải kiện xin chia thừa kế nhiều lần, Tòa án sẽ phải ít nhất hai lần thụ lý và giải quyết hai vụ tranh chấp khác nhau trên cùng một khối tài sản của người chết trước. Điều này không chỉ gây khó khăn cho người thừa kế của người chết trước, làm phức tạp thêm tính chất của vụ việc, mà còn gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế (trong việc xác định di sản của người chết, xác định người thừa kế của người chết trước và việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ…), thậm chí, có thể còn vi phạm nguyên tắc “nhất sự bất tái cứu” trong tố tụng (vụ việc đã xét xử xong rồi thì toà án không thụ lý, giải quyết lại), vì phải tiến hành xét xử nhiều lần để phân chia di sản của người chết.

Thứ hai, quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung như luận hiện hành sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước.

Quyền thừa kế đối với di sản của người chết trước phát sinh từ thời điểm mở thừa kế, nhưng cho đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực, những người thừa kế của người chết trước sẽ không thể yêu cầu phân chia di sản của người chết đã được định đoạt trong di chúc chung và phần di sản liên quan tới phần nội dung di chúc chung bị vô hiệu, nếu có; hoặc trong trường hợp người vợ hay người chồng vẫn còn sống lâu hơn so với tuổi thọ của


những người thừa kế hợp pháp của người chết trước (như cha, mẹ của người chết trước, người thừa kế là con riêng chưa thành niên đang đau yếu cần có tiền để chữa bệnh…), làm những người này mất quyền được hưởng di sản. Điều này đã xâm phạm tới quyền thừa kế hợp pháp của công dân được hiến pháp và pháp luật bảo hộ. Ví dụ: ông A, bà B lập di chúc chung để lại di sản cho các con chung của ông A, bà B và cha, mẹ của ông A. Sau đó ông A chết. Vấn đề phát sinh là cha mẹ của ông A cần khoản tiền để chữa bệnh nên muốn được chia thừa kế di sản của ông A. Nhưng do bà B vẫn còn sống, di chúc chung của A và B chưa có hiệu lực nên cha mẹ của ông A không thể yêu cầu chia di sản của ông A theo di chúc chung của ông và bà B được.

Ngoài ra trường hợp di chúc chung có thể bị vô hiệu toàn bộ hay một phần nhưng mãi đến hàng chục năm sau mới phát hiện, trong nhiều trường hợp, quyền khởi kiện đòi chia thừa kế của những người thừa kế hợp pháp của người vợ hay người chồng chết trước đã không được đảm bảo.

Thứ ba, quy định này đã gây khó khăn cho việc xác định phạm vi những người thừa kế và tư cách của người được thừa hưởng di sản.

Nếu những người thừa kế (của vợ, chồng đã quá cố hoặc những người được chỉ định trong di chúc chung) chết sau thời điểm mở thừa kế, nhưng chết trước khi di chúc chung có hiệu lực, thì họ có còn được hưởng thừa kế nữa không, có chia thừa kế thế vị hay thừa kế chuyển tiếp không; hoặc những người trong diện thừa kế hợp pháp (của người vợ hoặc chồng còn sống), nhưng tư cách thừa kế của họ được xác định trước khi di chúc chung có hiệu lực (như vợ, chồng tái hôn hoặc con riêng với người vợ, chồng sau…), thì họ có được thừa kế bắt buộc đối với phần di sản đã được định đoạt trong di chúc chung hay không; hoặc những được chỉ định trong di chúc chung chết trước khi di chúc chung có hiệu lực, nhưng chết sau thời điểm mở thừa kế của người vợ hay chồng đã quá cố, thì họ có thuộc thừa kế theo di chúc chung hay


không… là những vấn đề chưa được qui định trong pháp luật hiện hành, làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc xác định tư cách người thừa kế và các qui định khác có liên quan.

Thứ tư, sự mâu thuẫn giữa quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng với các quy định khác có liên quan trong hệ thống pháp luật.

Theo các quy định liên quan, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Người thừa kế chỉ có thể từ chối hưởng di sản thừa kế trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Nếu không từ chối đúng thủ tục do luật định thì được coi là đã nhận di sản. Theo đó giữa thời điểm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế so với thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là khác nhau, dẫn tới sự bất cập và thiếu nhất quán trong việc thực hiện các quyền này. Mặt khác thời điểm có hiệu lực của di chúc chung rõ ràng cũng không nhất quán với quyền từ chối hưởng di sản vì vào thời điểm di chúc chung có hiệu lực, người thừa kế cũng không thể thực hiện quyền từ chối thừa kế được.

Mặt khác, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định di chúc chung có hiệu lực từ khi người sau cùng chết, nhưng theo quy định của Luật Nhà ở năm 2005 thì người thừa kế có quyền sử hữu đối với di sản thừa kế là nhà ở, kể từ thời điểm mở thừa kế. Như vậy thời điểm có quyền sở hữu nhà phát sinh trước thời điểm di chúc chung có hiệu lực. Xét trên phương diện quyền sở hữu và quyền thừa kế, có thể thấy khi người chủ tài sản chết sẽ làm chấm dứt tư cách chủ sở hữu đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình đồng thời làm phát sinh quyền thừa kế của những người thừa kế. Vì vậy quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là một vướng mắc rất khó giải quyết.

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 15/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí