Với vai trò quan trọng của tài sản chung của vợ chồng, việc chia tài sản chung không chỉ là vấn đề riêng của vợ chồng mà còn là mối quan tâm của các thành viên còn lại trong gia đình (nếu có) và bên thứ ba có liên quan. Trước hết, chia tài sản chung của vợ chồng có thể gây ra những xáo trộn nhất định trong đời sống gia đình, đặc biệt là đời sống vật chất - việc đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt của gia đình có thể bị ảnh hưởng. Ngoài ra, bên thứ ba có liên quan đặc biệt là các chủ nợ của vợ chồng cũng sẽ hết sức lưu tâm đến vấn đề này để đảm bảo khả năng thu hồi nợ của mình khi tài sản chung của vợ chồng trở thành tài sản riêng của một người và khối tài sản chung nay đã giảm sút hoặc không còn.
1.1.2.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng
Theo quy định pháp luật, tài sản chung của vợ chồng có thể được chia khi thuộc một trong ba trường hợp gồm: chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn và chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết.
Trước hết, chế định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng được xây dựng trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và BLDS.
Việc Hiến pháp nước ta ghi nhận và bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân (Điều 58 Hiến pháp 1992) là cơ sở đầu tiên để vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng đối với tài sản được chia. Khi chia tài sản chung, khối tài sản chung của vợ chồng bị giảm sút nhưng khối tài sản riêng của vợ, chồng lại tăng lên tương ứng. Đồng thời, với tư cách là luật chung, những quy định của BLDS về sở hữu chung, đặc biệt là các quy định liên quan đến sở hữu chung của vợ chồng như sở hữu chung hợp nhất (Điều 217 BLDS năm 2005); sở hữu chung của vợ chồng (Điều 219); chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung (Điều 221, 222, 223); chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung (Điều 224)… là những quy định tiền đề để luật chuyên ngành (Luật HN&GĐ) quy định cụ thể về các trường hợp cũng như điều kiện, nguyên tắc… chia tài
sản chung của vợ chồng. Theo quy định của các điều luật kể trên thì sở hữu chung hợp nhất cùng với sở hữu chung theo phần là hai loại thuộc hình thức sở hữu chung. Tuy nhiên, việc sử dụng, định đoạt tài sản chung hợp nhất có nhiều điểm khác biệt so với sở hữu chung theo phần. Nếu như, trong sở hữu chung theo phần, mỗi chủ sở hữu chung có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình thì ở sở hữu chung hợp nhất các chủ sở hữu chung lại có quyền ngang nhau trong việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung. Về định đoạt tài sản chung, trong sở hữu chung theo phần, việc định đoạt tài sản chung của mỗi đồng chủ sở hữu là việc định đoạt phần quyền của họ trong khối tài sản chung, do đó, mỗi một đồng chủ sở hữu có toàn quyền trong việc định đoạt phần quyền của mình đối với tài sản thuộc sở hữu chung. Ngược lại, do đặc thù của sở hữu chung hợp nhất là phần quyền của sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định nên việc định đoạt tài sản chung hợp nhất lại đòi hỏi phải có sự thỏa thuận của các đồng chủ sở hữu chung.
Với tính chất cộng đồng của hôn nhân, BLDS năm 2005 quy định tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Điều kiện hình thành và duy trì khối tài sản chung của vợ chồng là có tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa vợ chồng. Là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất, khi hôn nhân còn tồn tại phần quyền của vợ, chồng đối với tài sản chung không được xác định. Trong khối tài sản chung, không thể phân định được tài sản nào của vợ, tài sản nào của chồng. Đồng thời, vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Với những giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản có giá trị không lớn, đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình chỉ cần một bên vợ hoặc chồng thực hiện hoặc đương nhiên coi là có sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, "việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư, kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận" [34, Khoản 3 Điều 28]. Như vậy, nếu không có sự thỏa thuận, bàn bạc và nhất trí
của hai vợ chồng thì các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình và việc sử dụng tài sản chung để đầu tư, kinh doanh sẽ không có giá trị pháp lý.
Tài sản chung của vợ chồng có vai trò hết sức quan trọng đối với cuộc sống gia đình. Nó được sử dụng để đảm bảo các hoạt động của gia đình, phục vụ nhu cầu, lợi ích của gia đình và được coi là "nguồn sống" chủ yếu của gia đình. Tuy nhiên, khi một đồng sở hữu chung hợp nhất không còn do vợ chồng ly hôn hoặc vợ, chồng chết trước, lúc này, cuộc sống chung của vợ chồng chấm dứt, khối tài sản chung của vợ chồng không còn cơ sở để duy trì và phát triển. Chia tài sản chung của vợ chồng trong những trường hợp này - khi không còn sự tồn tại của một cuộc sống chung - được đặt ra như một hệ quả tất yếu. Mặt khác, khi vợ hoặc chồng chết, việc chia tài sản chung của vợ chồng còn nhằm đảm bảo quyền lợi của những người thừa kế theo quy định của pháp luật thừa kế và để người còn sống có thể thực hiện đầy đủ quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản của mình.
Bên cạnh đó, ngay cả trong trường hợp vợ chồng vẫn duy trì cuộc sống chung, hôn nhân vẫn còn tồn tại, thì để đảm bảo cuộc sống gia đình, vợ, chồng phải tham gia nhiều giao dịch liên quan đến tài sản chung, vì vậy, tài sản chung của vợ chồng trở thành đối tượng của nhiều giao dịch khác nhau. Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, các giao dịch tài sản diễn ra đa dạng, nhanh chóng, đòi hỏi một cơ chế quản lý, sử dụng tài sản linh hoạt. Trong khi đó, việc sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng trong nhiều trường hợp bắt buộc phải có sự thỏa thuận, bàn bạc của cả hai vợ chồng (Khoản 3 Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2000) phần nào hạn chế tính chủ động, nhanh nhạy của vợ, chồng. Xây dựng một cơ chế hợp lý, vừa tạo điều kiện cho vợ, chồng đầu tư kinh doanh; thực hiện các nghĩa vụ tài sản khác…vừa đảm bảo sự ổn định, phát triển của gia đình đồng thời không làm phá vỡ chế độ sở hữu chung của vợ chồng là một đòi hỏi khách quan. Vì vậy, bên cạnh hai trường hợp chia tài sản chung thường thấy là chia khi vợ chồng khi ly hôn và khi vợ hoặc chồng chết trước, thì chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
Có thể bạn quan tâm!
- Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện - 1
- Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện - 2
- Khái Niệm Tài Sản Chung Của Vợ Chồng
- Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Trong Pháp Luật Việt Nam Từ 1945 Đến Nay
- Hậu Quả Pháp Lý Của Việc Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Trong Thời Kỳ Hôn Nhân
- Thực Tiễn Áp Dụng Các Quy Định Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Trong Thời Kỳ Hôn Nhân
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
kỳ hôn nhân được cũng bắt đầu được quy định từ Luật HN&GĐ năm 1986 (Điều 18) và tiếp tục được Luật HN&GĐ năm 2000 kế thừa (Điều 29, 30).
1.1.2.3. Đặc điểm của chia tài sản chung của vợ chồng
Sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung thuộc hình thức sở hữu chung. Do vậy, chia tài sản chung của vợ chồng cũng mang một số đặc điểm chung của chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung. Theo đó, vợ chồng với tư cách là các đồng sở hữu đối với tài sản chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; tài sản chung không thể chia bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để chia… Tuy nhiên, so với các sở hữu chung khác, sở hữu chung của vợ chồng mang nhiều nét đặc thù như sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất với phần quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản chung không được xác định; khi hình thành quan hệ hôn nhân hợp pháp, sở hữu chung của vợ chồng cũng mặc nhiên được xác lập theo quy định của pháp luật mà không cần bất cứ thỏa thuận nào về tài sản của vợ chồng…Vì vậy, bên cạnh một số điểm chung như chia tài sản thuộc các loại sở hữu chung khác, chia tài sản chung của vợ chồng còn mang những đặc điểm riêng sau đây:
Chỉ được chia tài sản chung của vợ chồng khi thuộc trường hợp chia pháp luật quy định
Mục đích tiến tới hôn nhân của hầu hết các đôi nam, nữ là cùng nhau xây dựng gia đình, no ấm, hạnh phúc, cùng yêu thương, chia sẻ. Vì vậy, nhiều tác giả cho rằng sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà nhằm chung sống với nhau suốt đời, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững là một trong những đặc điểm của hôn nhân và tính chất bền vững suốt đời là đặc trưng của hôn nhân xã hội chủ nghĩa. Với đặc trưng đó của hôn nhân, pháp luật Việt Nam quy định chế độ tài sản chung của vợ chồng bắt đầu từ khi quan hệ hôn nhân được xác lập và được thực hiện trong suốt thời kỳ hôn nhân, vợ chồng không thể thoả thuận nhằm thay đổi trongộ tài sản chung này. Bởi vậy, không giống như hình thức sở hữu chung theo phần, các chủ sở hữu có thể yêu cầu hoặc thỏa thuận chia tài sản chung với nhiều lý do khác nhau xuất phát từ ý muốn chủ quan của họ, việc chia tài sản chung của vợ
chồng chỉ được thực hiện khi "rơi" vào các trường hợp chia do pháp luật dự liệu, vợ chồng không thể chia tài sản chung chỉ vì ý thích cá nhân của vợ chồng.
Đặc biệt, trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, mặc dù vợ chồng được quyền chủ động trong việc thỏa thuận chia hoặc không chia tài sản chung nhưng không phải là sự thỏa thuận "tùy hứng" theo ý chí của vợ chồng mà phải trên cơ sở các lý do pháp luật quy định. Trong trường hợp này, lý do chia phù hợp với quy định pháp luật trở thành một trong những điều kiện để công nhận hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng. Quy định như vậy nhằm tránh tình trạng vợ chồng lạm dụng quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân làm phá vỡ chế độ tài sản chung của vợ chồng, gây ảnh hưởng đến đời sống chung của gia đình.
Cơ chế phân chia đặc biệt
Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp chia khi vợ hoặc chồng chết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ can thiệp khi vợ chồng không thỏa thuận được hoặc sự thỏa thuận của vợ chồng vi phạm các quy định pháp luật như không đảm bảo lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên… Với đặc điểm của sở hữu chung hợp nhất - phần quyền của vợ, chồng trong khối tài sản chung không được xác định trước, khi tài sản chung được chia tại Tòa án, về nguyên tắc tài sản chung được chia đôi cho vợ và chồng. Trên cơ sở đó, công sức đóng góp của vợ chồng được cân nhắc để đảm bảo việc phân chia tài sản chung công bằng và hợp lý khi vợ chồng ly hôn. Như vậy, chia tài sản chung của vợ chồng đặc biệt ngay từ cách chia tài sản. Thông thường, để chia tài sản chung trước tiên người ta phải tính toán phần đóng góp nhiều ít của các đồng chủ sở hữu từ đó mới phân chia tài sản cho các đồng sở hữu tương ứng với phần đóng góp đó. Vì vậy, đóng góp của mỗi đồng chủ sở hữu là căn cứ đầu tiên để tính toán giá trị tài sản chung được chia. Ví dụ như khi công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên giải thể hoặc phá sản, các thành viên sẽ được chia giá trị tài sản còn lại của công ty tương ứng với phần vốn góp của mình (Điểm đ Khoản 1 Điều 41 Luật Doanh nghiệp năm 2005). Ngược lại, chia tài sản chung của vợ chồng lại bắt
đầu bằng việc áp dụng nguyên tắc chia đôi, sau đó mới xem xét đến công sức đóng góp, hoàn cảnh…của mỗi bên. Đồng thời, việc tính toán công sức đóng góp của vợ, chồng cũng chỉ mang tính ước lượng tương đối mà không thể tính toán số học một cách tuyệt đối như đối với các trường hợp đóng góp ở hình thức sở hữu chung theo phần. Đặc biệt hơn, khi vợ, chồng chết tài sản chung được chia đôi mà không xét đến công sức đóng góp nhiều hay ít của vợ, chồng. Cơ chế phân chia này duy nhất chỉ xuất hiện ở chia tài sản chung của vợ chồng mà không tồn tại ở các sở hữu chung khác.
1.1.3. Lịch sử phát triển chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam
Khảo cứu các quy định của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ, các vấn đề về tài sản trong gia đình đặc biệt là quan hệ tài sản giữa vợ chồng cũng đã ít nhiều được nhắc tới trong các văn bản pháp luật thời kỳ phong kiến và ngày càng được chú trọng trong pháp luật hiện đại.
1.1.3.1. Chia tài sản chung của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến
Pháp luật dưới các triều đại phong kiến Việt Nam điển hình là Bộ Quốc triều hình luật ban hành dưới triều Lê niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) và Bộ Hoàng việt luật lệ ban hành dưới triều Nguyễn (1812), có rất ít quy định về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, cụ thể là về chia tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản của vợ chồng, theo các quy định của Bộ Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng đức) chỉ có điền thổ mà không nói đến các động sản khác. Về chia tài sản chung, theo Điều 375 Bộ luật Hồng đức, trường hợp vợ chồng không có con thì khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, điền thổ của vợ chồng sẽ được chia như sau:
Với điền thổ có được do bố mẹ dành cho: Điền thổ được chia làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho gia đình bên vợ/chồng (bố mẹ hoặc người thừa tự) để lo việc tế lễ, một phần giành cho chồng/vợ để phụng dưỡng một đời (không có quyền sở hữu). Khi người chồng/vợ chết thì phần tài sản này giao lại cho gia đình bên vợ/chồng. Nếu người vợ đi lấy chồng khác thì
phần tài sản được chia phải trả lại cho gia đình bên chồng. Tuy nhiên, nếu người chồng đi lấy vợ khác thì vẫn tiếp tục có quyền đối với tài sản được chia.
Với điền thổ do hai vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân: Điền thổ được chia làm hai phần bằng nhau, một phần giành cho chồng/vợ còn sống làm của riêng, một phần giành cho vợ/chồng để chia ra như sau: 1/3 giành cho nhà vợ/chồng để lo việc tế lễ, 2/3 giành cho chồng/vợ còn sống để phụng dưỡng một đời (không được làm của riêng, khi chết giao trả lại cho gia đình bên chồng/vợ). Nếu người vợ đi lấy chồng khác, 2/3 số tài sản được chia từ số tài sản của chồng phải được trả lại cho gia đình bên chồng. Nếu chồng đi lấy vợ khác, 2/3 số tài sản được chia từ số tài sản của vợ vẫn được tiếp tục sử dụng.
Trái với trường hợp vợ, chồng chết trước được pháp luật quy định khá cụ thể như trên, thì khi vợ chồng ly hôn, vấn đề phân chia con cái, tài sản sau ly hôn không được quy định trong Bộ luật. Lý giải cho việc này,bỏ ngỏ quy định về chia tài sản chung khi vợ chồng ly hôn theo Vũ Văn Mẫu thì,"giá thú được coi như một chế định có tính cách cao đẹp và trang nghiêm, nhằm mục đích thờ phụng tổ tiên và nối dõi tông đường, chứ không phải vì tiền tài điền sản. Vì vậy, khi ly hôn, nhà làm luật cũng không đề cập đến vấn đề này" [24, tr. 103].
Bộ Hoàng việt luật lệ (Bộ luật Gia Long): “Do lệ thuộc và sao chép Luật Đại Thanh nên Bộ luật Gia Long đã hoàn toàn thủ những chế định tương đối tiến bộ đã được ghi nhận trong Bộ luật Hồng Đức như chế định pháp luật về thừa kế, chế định bình đẳng về tài sản giữa vợ và chồng” [44, tr. 48]. Theo các quy định của Bộ luật Gia Long, người vợ được coi là vô năng lực, hoàn toàn phụ thuộc vào người chồng và gia đình chồng. Do đó, Bộ luật không quy định quyền thừa kế của người vợ, việc chia tài sản khi vợ hoặc chồng chết và khi ly hôn. Tóm lại, "vấn đề tài sản giữa vợ và chồng hầu như không được Luật Gia Long đề cập tới" [29, tr. 85].
1.1.3.2 Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật thời kỳ Pháp thuộc
Trong thời kỳ Pháp thuộc, tồn tại song song ba Bộ dân luật là Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ (DLGYNK) năm 1883, Bộ Dân luật Bắc Kỳ (DLBK)
năm 1931 và Hoàng việt Trung Kỳ hộ luật (DLTK) năm 1936. DLGYNK không có quy định về hôn sản, di sản và tự sản. Do đó, chế độ hôn sản ở Nam Kỳ được áp dụng theo án lệ trên các nguyên tắc: Người vợ không có của riêng theo quy định của DLGYNK, người chồng là chủ sở hữu toàn thể gia sản. Do tài sản trong gia đình được coi là thuộc quyền sở hữu duy nhất của chồng nên trường hợp vợ chết thì chồng là chủ sở hữu đối với toàn bộ tài sản của gia đình nhưng nếu chồng chết thì vợ chỉ có quyền hưởng dụng thu lợi trên toàn bộ tài sản của gia đình trong thời kỳ ở góa. Đồng thời, trong trường hợp vợ chồng ly hôn, toàn bộ tài sản của gia đình phải để lại cho người chồng, người vợ chỉ có quyền lấy đi những tài sản được coi là của riêng của vợ theo án lệ (đồ tư trang của vợ, tài sản người vợ được gia đình vợ tặng cho...). Như vậy, theo DLGYNK chia tài sản không được đặt ra trong bất kỳ trường hợp nào.
Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, DLBK và DLTK đều quy định cho vợ chồng có quyền lập hôn ước. Chế độ hôn sản pháp định chỉ được áp dụng khi vợ chồng không có hôn ước hoặc hôn ước bị tiêu hủy do không hợp lệ. Theo quy định trong DLBK và DLTK chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản. Về chia tài sản của vợ chồng, trường hợp chồng chết trước, người vợ chỉ có quyền hưởng dụng khối cộng đồng tài sản trong thời kỳ ở góa, nhưng nếu vợ chết trước thì chồng trở thành chủ sở hữu tất cả của cải trong khối cộng đồng kể cả kỷ phần của vợ (Điều 113 DLBK và Điều 111 DLTK). Trường hợp vợ chồng ly hôn, việc chia tài sản của vợ chồng được thực hiện theo hôn ước. Nếu không có hôn ước, thì áp dụng Điều 112 DLBK và Điều 110 DLTK chia như sau: Nếu vợ chồng không có con, sau khi mỗi người nhận lại kỷ phần của mình, tài sản còn lại được chia đôi cho vợ chồng, nếu vợ "phạm gian" dẫn tới ly hôn thì vợ chỉ được một phần tư. Nếu vợ chồng ly hôn mà còn có con, pháp luật quy định không thanh toán tài sản, người vợ chỉ được hưởng một phần của chung, phần này nhiều hay ít tùy theo phần người vợ đã góp vào và làm tăng thêm khối của chung và sẽ giảm đi nếu vì vợ "phạm gian" mà dẫn tới ly hôn.
Như vậy, cả ba Bộ Dân luật kể trên, các quy định về chia tài sản của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết và khi vợ chồng ly hôn đều thể hiện sự bất