Quan điểm thứ hai: Khôi phục quan hệ tài sản khi người vợ hoặc chồng bị tuyên bố là đã chết trở về là việc làm cho quan hệ hôn nhân của anh A và chị B được liên tục kể cả trong thời gian anh A bị tuyên bố là đã chết và như vậy, đương nhiên các tài sản mà chị B làm ra trong thời gian anh A được coi là đã chết là tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000.
Việc hiểu cụm từ "quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục" theo nghĩa nào sẽ không ảnh hưởng nhiều đến hai vợ chồng nếu họ cùng thương yêu và muốn tiếp tục quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, nếu một trong hai người hoặc cả hai vợ chồng đều không muốn tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân thì hệ quả về tài sản do việc khôi phục quan hệ hôn nhân theo nghĩa thứ hai phải chăng là điều chưa hợp lý và làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người vợ, chồng của người được coi là đã chết - trong tình huống trên là chị B.
Mặc dù BLDS năm 2005 có quy định về quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết trong đó có quy định cụ thể về quan hệ nhân thân của vợ chồng. Tuy nhiên, quy định về hệ quả pháp lý về mặt tài sản theo đó "Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn" (Khoản 3 Điều 83 BLDS năm 2005) là quy định áp dụng chung, những đặc thù riêng trong việc khôi phục quan hệ tài sản của vợ chồng không được nhắc tới. Trong khi đó, ngoài quy định tại Điều 26 được trích dẫn trên, Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định gì thêm về vấn đề này khiến cho việc hiểu và áp dụng không thống nhất.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chế định tài sản của vợ chồng nói chung và chia tài sản chung của vợ chồng nói riêng theo quy định pháp luật hiện hành đã có nhiều quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn so với các quy định trước đó. Việc áp dụng pháp luật vì thế cũng được đảm bảo tốt hơn. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế, các quan hệ tài sản của vợ chồng diễn ra nhanh chóng và thường xuyên biến đổi đã và đang làm phát sinh những vấn đề mới mà pháp luật chưa kịp điều chỉnh hoặc chưa bao quát hết như vấn đề quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nguyên tắc chia tại tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, việc chia tài sản chung khi vợ hoặc chồng chết trước tại Tòa án v.v... Bên cạnh đó, một số quy định tuy đã được dự liệu trong pháp luật nhưng còn chung chung, chưa đủ cụ thể hoặc không phù hợp với thực tiễn khiến việc áp dụng pháp luật gặp rất nhiều trở ngại, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ chồng và các bên liên quan, như quy định về hệ quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quy định về thỏa thuận tài sản chung v.v… Những vấn đề trên đã khiến cho việc áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình áp dụng pháp luật và việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu phải tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện pháp luật về vấn đề này cũng như tìm giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tế.
Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
Có thể bạn quan tâm!
- Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện - 10
- Thực Tiễn Áp Dụng Các Quy Định Về Nguyên Tắc Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn
- Thực Tiễn Áp Dụng Các Quy Định Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Vợ Hoặc Chồng Chết
- Quy Định Văn Bản Thỏa Thuận Chia Tài Sản Chung Phải Công Chứng Hoặc Được Tòa Án Công Nhận
- Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện - 15
- Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện - 16
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
Những hạn chế, bất cập của chế định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng đã gây ra nhiều khó khăn trong thực tiễn áp dụng như phân tích ở chương 2. Vì vậy, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị nhằm tiến tới hoàn thiện chế định pháp luật này. Đồng thời, chúng tôi cũng đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng, tạo ra hệ thống giải pháp đồng bộ để tháo gỡ những bất cập, khó khăn khi áp dụng pháp luật vào thực tiễn.
3.1. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
3.1.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Để các quy định pháp luật về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phát huy hiệu quả tích cực, hạn chế việc vợ chồng lạm dụng, tùy tiện chia tài sản chung trong thực tế, pháp luật cần làm rõ và bổ sung một số quy định sau đây.
3.1.1.1. Giới hạn quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng
Như mục 2.1.1 chương 2 đã phân tích, quy định "khi hôn nhân còn tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng….thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung" là quy định quá chung chung. Quy định trên đã "mở cánh cửa quá rộng" cho vợ chồng và có thể dẫn tới tình trạng vợ chồng chia tài sản chung khi có lý do nhưng lại là
không cần thiết. Theo chúng tôi, pháp luật nên giới hạn những nghĩa vụ dân sự riêng mà vì nghĩa vụ đó vợ chồng được quyền thỏa thuận chia tài sản chung.
Về vấn đề này chúng ta có thể tham khảo giải pháp được quy định trong Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan như sau "một bên vợ hoặc chồng có nghĩa vụ tài sản riêng nhưng không có hoặc không đủ tài sản riêng để thực hiện, phải thực hiện bằng phần tài sản của mình trong khối tài sản chung" [1, Điều 1488] là một trong những lý do được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Như vậy, không phải bất kỳ khi nào phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng vợ chồng cũng có quyền chia tài sản chung mà chỉ trong trường hợp người có nghĩa vụ không có khả năng chi trả bằng tài sản riêng của mình thì mới có quyền yêu cầu chia tài sản chung để lấy tài sản thực hiện nghĩa vụ. Vận dụng vào Việt Nam, theo chúng tôi, nghĩa vụ mà vợ, chồng có quyền thỏa thuận hoặc yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải là những nghĩa vụ tài sản riêng đáp ứng được một trong các điều kiện sau:
Thứ nhất: Nghĩa vụ tài sản riêng mà vợ, chồng có nghĩa vụ không có hoặc không đủ tài sản riêng để thực hiện;
Thứ hai: Nghĩa vụ tài sản riêng mà tài sản riêng của người có nghĩa vụ đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ nhưng do những tài sản đó đang được sử dụng chung và hoa lợi, lợi tức của nó đang là nguồn sống duy nhất của gia đình nên phải thực hiện nghĩa vụ bằng phần tài sản của mình trong khối tài sản chung.
Áp dụng phương án trên, một mặt, tránh sự lạm dụng của vợ chồng, mặt khác, tạo cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết yêu cầu chia tài sản chung trong trường hợp vợ chồng không đạt được sự đồng thuận về sự cần thiết phải chia tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Bằng những quy định cụ thể về điều kiện để một nghĩa vụ tài sản riêng có thể được sử dụng làm lý do yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Tòa án sẽ có căn cứ để giải quyết yêu cầu của vợ chồng trong thực tiễn. Đồng thời, căn cứ vào những quy định này, vợ chồng có thể soi chiếu để xác định trường hợp của mình có được yêu cầu chia tài sản chung hay không, hạn chế những
trường hợp phải yêu cầu Tòa án giải quyết vì không thống nhất được sự cần thiết phải chia tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ tài sản riêng.
3.1.1.2. Quy định cụ thể về lý do chính đáng
Việc thiếu tiêu chuẩn để đánh giá lý do vợ chồng đưa ra là chính đáng hay không chính đáng đã khiến cho quy định pháp luật về lý do chia tài sản chung thiếu chặt chẽ và không phát huy tác dụng trong thực tế. Để tránh tình trạng đó, cần quy định cụ thể tiêu chuẩn đánh giá lý do là chính đáng hay không chính đáng. Mục đích lớn nhất để đặt ra chế định chia tài sản chung của vợ chồng là nhằm bảo vệ lợi ích chung của gia đình, vì thế để có thể đánh giá một lý do được nại ra là chính đáng hay không trước hết phải căn cứ vào mục đích của việc chia tài sản chung có nhằm bảo vệ lợi ích gia đình hay không? Chúng tôi cho rằng, đây là tiêu chí quan trọng nhất để một lý do được coi là chính đáng. Nói cách khác, theo chúng tôi, lý do chia tài sản chung của vợ chồng sẽ là chính đáng khi việc chia tài sản đó góp phần bảo vệ tốt hơn lợi ích chung của gia đình. Ví dụ, nếu một bên vợ hoặc chồng thường xuyên có hành vi phá tán tài sản chung, gây thiệt hại cho lợi ích gia đình, thì trong trường hợp này chia tài sản chung sẽ giúp bảo toàn phần tài sản riêng mà bên không phán tán tài sản được chia từ khối tài sản chung đó, tránh nguy cơ mất toàn bộ tài sản chung. Điều đó cũng có nghĩa là bảo vệ được phần tài sản để lo cho lợi ích chung của gia đình.
Trong trường hợp vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, mâu thuẫn sâu sắc trong việc quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản chung khiến việc thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Điều này cũng khiến cho lợi ích chung của gia đình bị ảnh hưởng. Vì vậy, việc chia tài sản chung nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình giao dịch liên quan đến tài sản cũng có thể được coi là một trong những lý do chính đáng, bởi tài sản được đưa vào giao dịch sẽ làm tăng lên cơ hội thu lợi nhuận trên tài sản, từ đó, lợi ích gia đình cũng sẽ được tăng lên.
Ngoài ra, trong trường hợp một bên vợ, chồng được coi là vắng mặt tại nơi cư trú hoặc bị tuyên bố mất tích theo các quy định tại các Điều 74, 78
BLDS năm 2005 thì đó cũng có thể được coi là một trong những lý do chính đáng để vợ, chồng yêu cầu chia tài sản chung. Vì trong những trường hợp này, theo quy định tại Khoản 2 Điều 76 và Khoản 2 Điều 77 BLDS năm 2005, người vợ, chồng còn lại là người quản lý tài sản của người vắng mặt, mất tích nhưng họ lại không có quyền định đoạt tài sản đó (trừ trường hợp bán hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng và trích một phần tài sản của người vắng mặt để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng…). Trong khi đó, tài sản của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất, nếu không chia thì người vợ, chồng đó cũng không thể tiến hành các giao dịch, đặc biệt là việc chuyển quyền sở hữu đối với các loại tài sản có đăng ký và yêu cầu phải có sự đồng ý của hai vợ chồng. Khi các giao dịch dân sự của vợ chồng bị ngưng trệ thì điều đó không chỉ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích riêng của vợ, chồng mà còn ảnh hưởng đến lợi ích chung của gia đình. Bởi vậy, chúng tôi cho rằng, khi một bên vợ hoặc chồng bị coi là vắng mặt tại nơi cư trú hay bị tuyên bố mất tích, thì đây chính là một trong những lý do chính đáng để người còn lại yêu cầu được chia tài sản chung.
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, lý do được coi là chính đáng phải được xem xét, đánh giá dựa trên tiêu chí bảo vệ lợi ích chung của gia đình. Dựa trên tiêu chí này, chúng tôi cho rằng, khi thuộc một trong các trường hợp sau đây vợ chồng có thể yêu cầu chia tài sản chung:
- Một bên vợ hoặc chồng thường xuyên có hành vi phá tán tài sản chung;
- Vợ, chồng có mâu thuẫn sâu sắc trong việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
- Một bên vợ hoặc chồng bị coi là vắng mặt tại nơi cư trú hoặc bị tuyên bố mất tích theo quy định tại Điều 74 và Điều 78 BLDS năm 2005.
3.1.1.3. Quy định quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng cho người thứ ba (người có quyền)
Hiện nay, Luật HN&GĐ năm 2000 quy định người có quyền, lợi ích liên quan được yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu đối với việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện một số loại nghĩa vụ tài sản như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ trả nợ cho người khác… Quy định này đã góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người có quyền. Tuy nhiên, những quyền lợi hợp pháp của người có quyền trong quan hệ với vợ, chồng cũng cần được pháp luật bảo vệ ở một khía cạnh khác nữa đó là pháp luật cần quy định cho họ được quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp cần thiết. Trường hợp cần thiết đó là khi vợ hoặc chồng có nghĩa vụ tài sản với người thứ ba nhưng không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ và cố tình không chia tài sản chung của vợ chồng để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Ở vào trường hợp này, theo quy định pháp luật hiện nay, người có quyền sẽ khó có thể tìm được giải pháp để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Vì vậy, theo chúng tôi, quy định cho người có quyền được yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng là cần thiết và phù hợp với quy định về quyền yêu cầu của người có quyền tại Khoản 2 Điều 224 BLDS năm 2005. Kiến nghị về vấn đề này, tác giả Nguyễn Hồng Hải đề nghị:
Pháp luật cần quy định rõ: Trong trường hợp người có quyền có đủ chứng cứ cho rằng, vợ chồng không có thỏa thuận hoặc không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản, thì người có quyền có thể yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của người vợ hoặc người chồng có nghĩa vụ thực hiện thanh toán các khoản nợ. Yêu cầu của người có quyền sẽ không được Tòa án công nhận, nếu việc chia tài sản chung làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích gia đình của người có nghĩa vụ hoặc bản thân vợ, chồng có nghĩa vụ có đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ [15].
Chúng tôi nhất trí với kiến nghị trên về việc pháp luật công nhận cho người có quyền được yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, khi pháp luật quy định trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích gia đình là trường hợp loại trừ quyền yêu cầu của người có quyền thì cần phải có hướng dẫn cụ thể về trường hợp này theo một trong hai cách. Một là, pháp luật quy định tiêu chí để đánh giá thế nào là ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình dẫn tới việc loại trừ quyền yêu cầu chia tài sản chung. Hai là, pháp luật liệt kê cụ thể những trường hợp chia tài sản chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích gia đình. Quy định như vậy, Tòa án mới có cơ sở để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng của người có quyền và quyền yêu cầu của người thứ ba cũng sẽ thực chất hơn.
3.1.1.4. Quy định cụ thể trường hợp vợ chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung và nguyên tắc chia tài sản chung tại Tòa án
Theo quy định pháp luật về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng "nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết" [34, Khoản 1 Điều 29]. Tuy nhiên, do pháp luật không có quy định cụ thể về vấn đề này nên khi thụ lý yêu cầu trên của vợ chồng nhiều Tòa án tỏ ra lúng túng, đường lối giải quyết không nhất quán…. ảnh hưởng đến quyền lợi của vợ chồng và những người có liên quan. Pháp luật nên có hướng dẫn cụ thể về trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để làm cơ sở cho vợ chồng thực hiện cũng như Tòa án khi thụ lý, giải quyết yêu cầu của vợ chồng. Các vấn đề cần làm rõ đối với trường hợp này như vợ chồng không thỏa thuận được và có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết là khi vợ chồng không thỏa thuận được về sự cần thiết phải chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại hay là không thống nhất được cách thức phân chia, tài sản chung đem chia...
Đồng thời, Luật HN&GĐ năm 2000 cũng cần được bổ sung nguyên tắc chia tài sản chung tại Tòa án. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đã từng được quy định tại Điều 18 Luật HN&GĐ năm