Nội dung điều luật được đề nghị sửa đổi nói trên vừa hóa giải sự xung đột giữa quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung với các quy định về thời điểm mở thừa kế, thời điểm phát sinh quyền thừa kế, mốc tính thời hiệu khởi kiện, mốc để tính thời hạn từ chối di sản, quyền yêu cầu chia thừa kế, quyền được hưởng thừa kế bắt buộc…, nhưng cũng vừa thể hiện sự mềm dẻo của luật pháp. Qua đó, tạo cơ hội để những người thừa kế hợp pháp của mỗi bên vợ hoặc chồng được quyền khởi kiện để chia thừa kế bắt buộc, yêu cầu tòa án tuyên bố di chúc chung vô hiệu hoặc yêu cầu tòa án tước quyền thừa kế của người được chỉ định thừa kế theo di chúc chung nhưng có hành vi trái pháp luật được quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005.
3.5.2.4. Bổ sung quy định về thời điểm có hiệu lực của phần di chúc do một bên sửa đổi, bổ sung mà không được sự đồng ý của người kia
Pháp luật hiện hành không thừa nhận một bên vợ hoặc chồng có quyền tự ý sửa đổi, hủy bỏ di chúc chung mà không được sự đồng ý của người kia. Việc này đã xâm phạm tới quyền tự do định đoạt của cá nhân đối với phần tài sản riêng của mình. Mặt khác, người ta có thể lẩn tránh pháp luật bằng cách định đoạt phần tài sản của họ bằng cách khác, như tặng cho, hoặc bán…
Để đảm bảo quyền tự do định đoạt của cá nhân, đảm bảo di chúc được lập phù hợp với ý chí đích thực, tự nguyện của mỗi bên vợ - chồng, bên cạnh việc quy định vợ, chồng cùng nhau thỏa thuận sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc chung, thiết nghĩ cũng cần phải thừa nhận quyền tự do của mỗi bên vợ, chồng trong việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung trong phạm vi phần quyền của mình trong khối tài sản chung, dù không được sự đồng ý của bên kia. Đồng thời với việc thừa nhận mỗi bên vợ hoặc chồng có quyền tự do sửa đổi, bổ sung nội dung di chúc chung trong phạm vi tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, luật cũng cần phải quy định hệ quả pháp lý của việc này, nhất là việc xác định thời điểm có hiệu lực của từng phần di chúc chung sau khi di chúc
chung đã bị sửa đổi, bổ sung. Cụ thể, sửa đổi Điều 664 Bộ luật Dân sự năm 2005 như sau:
Điều 664: “1. (nội dung khoản 1 giữ nguyên).
Khoản 2. (sửa đổi, bổ sung - đoạn in nghiêng): “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia. Một bên cũng có quyền tự mình sửa đổi, bổ sung di chúc chung trong phạm vi phần di sản của mình. Việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung theo ý chí của một bên chỉ có giá trị trong phạm vi phần sửa đổi, bổ sung nhưng không vượt quá phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung”.
Khoản 3. (kế thừa quy định của Điều 671 Bộ luật Dân sự năm 1995):
Có thể bạn quan tâm!
- Bất Cập Về Quyền Lập Di Chúc Chung Của Vợ, Chồng Và Nguyên Tắc Tự Nguyện Cá Nhân Trong Việc Lập Di Chúc.
- Bất Cập Về Hình Thức Của Di Chúc Chung Của Vợ, Chồng.
- Bất Cập Về Vấn Đề Chấm Dứt Sự Tồn Tại Của Di Chúc Chung
- Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành - 12
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
“Nếu vợ, chồng thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết, mà có một bên vợ chồng đã chết, thì người vợ hay chồng còn sống chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”.
Khoản 4. (bổ sung quy định mới về hiệu lực của phần di chúc chung bị sửa đổi, bổ sung và phần không bị sửa đổi bổ sung):
“Thời điểm có hiệu lực của phần di chúc chung không bị sửa đổi, bổ sung và phần di chúc chung bị sửa đổi, bổ sung theo thỏa thuận của vợ, chồng được xác định theo Điều 668 Bộ luật này. Phần di chúc chung đã bị sửa đổi, bổ sung bởi quyết định đơn phương của một bên vợ hoặc chồng có hiệu lực theo quy định tại Điều 667 Bộ luật này”.
Quy định như trên nhằm đảm bảo quyền tự do định đoạt cá nhân trong việc để lại di sản thừa kế, đồng thời đảm bảo sự thống nhất giữa quy định này với các quy định khác có liên quan, như quy định về quyền sở hữu chung của vợ, chồng đối với tài sản chung, quy định về thời hiệu khởi kiện thừa kế, thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế đối với di sản do người
chết để lại… Hơn thế nữa, quy định này còn tạo cơ hội để một bên có thể sửa chữa những quyết định sai lầm của mình khi lập di chúc chung: được sửa đổi, bổ sung di chúc chung mặc dù không được bên kia đồng ý.
Đồng thời với việc sửa đổi quy định tại Điều 664 như vừa nêu, vấn đề thời điểm có hiệu lực của di chúc chung trong trường hợp có sửa đổi, bổ sung cũng được quy định cụ thể theo hướng: ổn định giá trị pháp lý của phần di chúc chung không bị sửa đổi, bổ sung; nếu việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung có sự thỏa thuận của vợ, chồng thì thời điểm có hiệu lực của nó được xác định theo nguyên tắc chung (Điều 668); đồng thời tách riêng phần di chúc được sửa đổi, bổ sung bởi quyết định đơn phương của một bên vợ, chồng để xem xét như một di chúc cá nhân.
3.5.2.5. Bổ sung thêm quy định về thời điểm có hiệu lực của các di chúc có liên quan, nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ, chồng để lại nhiều di chúc khác nhau
Trong trường hợp một người để lại di chúc chung và nhiều di chúc cá nhân khác nhau hoặc để lại nhiều di chúc chung khác nhau (hoặc nhiều di chúc chung với nhiều người vợ hay người chồng hợp pháp khác nhau của người đó)(12) thì sự ảnh hưởng hiệu lực giữa các di chúc này với nhau ra sao, và thời điểm phát sinh hiệu lực của các di chúc là thời điểm nào, là vấn đề phức tạp nhưng vẫn chưa được quy định cụ thể trong luật hiện hành. Thiết nghĩ, giá trị pháp lý cũng như hiệu lực của mỗi tờ di chúc trong trường hợp này phải được xem xét như những di chúc riêng biệt của một cá nhân, dựa trên mối tương quan về nội dung, cũng như thời điểm mà mỗi tờ di chúc được lập. Tùy nội dung các di chúc có mâu thuẫn nhau hay không, tùy thời điểm lập các di chúc là trước hay sau, mà quy định cụ thể về giá trị pháp lý cũng như hiệu lực của từng tờ di chúc đó một cách hợp lý, tương tự như di chúc của cá nhân. Nội dung này được thiết kế thành điều luật mới. Nội dung điều
luật có thể được diễn đạt ngắn gọn bằng phương pháp dẫn chiếu điều luật quy định về những nội dung tương ứng của di chúc cá nhân.
Điều 688 a. (bổ sung mới) “Nếu một người vừa lập di chúc chung, vừa lập di chúc riêng hoặc lập nhiều di chúc chung với nhiều người khác nhau, thì việc xác định giá trị pháp lý của mỗi tờ di chúc được dựa theo quy định tại các Điều 662, Điều 664, khoản 5 Điều 667 và Điều 688 của Bộ luật này”.
Quy định này nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng trong việc giải quyết những những di chúc có nội dung mâu thuẫn nhau, trong trường hợp các di chúc đó được lập vào những thời điểm khác nhau bởi mỗi bên vợ hoặc chồng, hoặc bởi cả hai vợ, chồng. Theo đó, nếu nội dung của các tờ di chúc không mâu thuẫnnhau, thì các di chúc đó đều có giá trị pháp lý; nếu nội dung của các di chúc mâu thuẫn nhau thì di chúc sau cùng là di chúc có giá trị pháp lý; nếu một phần di chúc trước có mâu thuẫn với di chúc sau, thì phần di chúc trước đó không có giá trị pháp lý còn di chúc sau và phần di chúc trước không mẫu thuẫn với di chúc sau có giá trị pháp lý. Quy định như trên cũng tạo ra sự thống nhất với quy định mới về quyền sửa đổi, bổ sung di chúc chung của một bên vợ hoặc chồng.
3.5.2.6. Cần quy định rõ ràng về hệ quả của việc xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung với việc tính thời hiệu khởi kiện thừa kế
Nếu thừa nhận vợ, chồng có thể thỏa thuận xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm bên sau cùng chết thì cần phải xác định rõ hậu quả của quy định này đối với việc tính thời hiệu khởi kiện thừa kế. Về nguyên tắc, thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm, tính từ thời điểm mở thừa kế.
Tuy pháp luật cũng thừa nhận 3 trường hợp có thể làm gián đoạn thời hiệu khởi kiện và hai trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, nhưng việc quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không hoàn toàn thuộc
những trường hợp gián đoạn hoặc bắt đầu lại thời hiệu vừa nêu. Và nếu không được quy định minh bạch, vấn đề này sẽ dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau. Để tạo căn cứ pháp lý rõ ràng cho việc áp dụng quy định pháp luật về cách tính thời hiệu khởi kiện thừa kế, thiết nghĩ nhà làm luật cần bổ sung quy định về căn cứ làm gián đoạn hoặc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện thừa kế, nếu quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết, nếu vợ, chồng có thỏa thuận. Cụ thể:
Điều 645 (bổ sung):
“1. (nội dung quy định hiện hành được giữ nguyên và thiết kế thành khoản 1 của Điều luật).
Khoản 2. (bổ sung): Thời hiệu khởi kiện thừa kế được bắt đầu lại trong các trường hợp sau:
a. Khi vợ, chồng có thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm bên sau cùng chết, thì thời hiệu khởi kiện thừa kế bắt đầu lại từ ngày di chúc chung có hiệu lực.
Quy định này không cản trở những người thừa kế khởi kiện sớm hơn để xin chia thừa kế phần di sản không được định đoạt trong di chúc chung; hoặc khởi kiện xin tòa án tuyên bố di chúc chung vô hiệu do di chúc không hợp pháp hoặc người thừa kế theo di chúc chung chết trước người lập di chúc, không có quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối quyền hưởng di sản; hoặc khởi kiện xin chia thừa kế theo quy định tại Điều 669 của Bộ luật này (thừa kế bắt buộc)”.
3.5.2.7. Cần quy định rõ về việc công chứng, chứng thực di chúc
Điều 657 Bộ luật dân sự năm 2005 bổ sung:
“Riêng đối với di chúc chung của vợ, chồng bắt buộc phải được công chứng, chứng thực.
Trường hợp di chúc chung của vợ, chồng là di chúc miệng thì sau khi người làm chứng thể hiện ý chí của người lập di chúc bằng văn bản, văn bản đó phải được công chứng, chứng thực.”
chồng
3.5.2.8. Vấn đề Sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, thay thế di chúc chung của vợ
Pháp luật quy định về công nhận quyền tự do lập di chúc chung, nhưng
cũng phải thừa nhận quyền tự định đoạt của cá nhân trong việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung của vợ chồng kể cả về thời điểm và phạm vi sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ.
Cụ thể, Điều 664 Bộ luật Dân sự năm 2005 cần sửa đổi, bổ sung theo hướng:
- Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
- Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia. Trong trường hợp bên còn lại không đồng ý sửa thì vợ hoặc chồng chỉ có quyền tự mình sửa đổi, bổ sung di chúc chung trong phạm vi phần di sản của mình.
- Nếu một chết trước thì người kia chỉ được sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.
- Phần di chúc chung không bị sửa đổi, bổ sung vẫn có giá trị. Phần di chúc chúc chung bị sửa đổi, bổ sung bởi quyết định của một bên vợ hoặc chồng mà không được sự đồng ý của bên kia thì được giải quyết giống như di chúc của cá nhân.
Việc quy định một bên vợ, chồng có quyền sửa đổi, bổ sung di chúc chung liên quan đến phần tài sản của mình để đảm bảo quyền tự do định đoạt tài sản của các nhân trong việc để lại thừa kế, đồng thời đảm bảo tính thống nhất của các quy định pháp luật. Quy định này chẳng những thể hiện sự tôn trọng quyền tự do cá nhân, mà còn mở ra cơ hội cần thiết để một bên có thể sửa chữa những quyết định của mình, mặc dù không được bên kia đồng ý.
Kết luận chương 3
Đây là chương tập trung chỉ ra những bất cập trong việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ, chồng. Nhiều luật gia ủng hộ cho quyền lập di chúc chung của vợ, chồng để định đoạt tài sản chung thay vì mỗi bên chỉ được lập di chúc cá nhân. Vấn đề tưởng chừng như đơn giản và không có gì phải bàn cãi nhưng qua thực tiễn đã cho thấy nhiều bất cập mà luật hiện hành chưa quy định đầy đủ, rõ ràng. Các thiếu sót, bất cập của luật đã dẫn tới hậu quả là làm cho vấn đề ngày càng trở nên rắc rối thêm, tạo ra nhiều mâu thuẫn so với các quy định của pháp luật khác có liên quan.
Giữa ý định muốn bỏ chế định di chúc chung của vợ, chồng với việc giữ lại các quy định này thì quan điểm muốn giữ lại có phần thắng thế, do thực tiễn pháp lý và thực tế đời sống đang đặt ra nhu cầu phải điều chỉnh bằng luật việc vợ, chồng muốn cùng nhau lập di chúc chung. Vì vậy học viên đã đưa ra những giải pháp mang tính cụ thể, đồng bộ, rõ ràng nhằm hoàn thiện pháp luật về di chúc chung của vợ, chồng.
KẾT LUẬN CHUNG
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định có hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Hình thức chia thừa kế theo di chúc là hình thức chia thừa kế trong đó ý chí của người để lại di sản được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ thông qua các quy phạm pháp luật. Bên cạnh di chúc cá nhân pháp luật Việt Nam còn quy định về di chúc chung của vợ, chồng. Quy định này làm phức tạp thêm việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Vì tính đa dạng, phong phú của khối tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng nên vợ, chồng định đoạt tài sản theo di chúc chung chỉ là ý chí chủ quan của họ, nguyện vọng của họ, và sau khi họ qua đời, việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến di chúc chung không phải bao giờ cũng thấu tình đạt lý. Việc pháp luật thừa nhận và có những quy định riêng về di chúc chung của vợ, chồng bên cạnh việc củng cố nguyên tắc đoàn kết, thương yêu giữa hai vợ, chồng nó còn nhiều vấn đề chưa thật sự phù hợp với xã hội hiện đại ngày nay. Vì vậy các nhà làm luật cần dựa trên thực tiễn hành nghề để có những sự bổ sung, sửa đổi các điều luật liên quan đến vấn đề này ngày càng chặt chẽ hơn, góp phần củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.