Khái Quát Về Fta Việt Nam – Liên Minh Kinh Tế Á-Âu


lẻ cũng bắt buộc phải có giấy chứng nhận của tất cả những sản phẩm nhập khẩu có trong cửa hàng của họ, nếu vi phạm có thể bị phạt tới 10.000 USD.

Có thể thấy rằng việc cấp giấy chứng nhận là vấn đề đáng quan tâm khi xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Liên bang Nga. Các vấn đề vệ sự mập mờ của các tiêu chuẩn cũng như quá trình chứng nhận, thêm vào đó là chi phí cao cho việc xin giấy chứng nhận đã khiến các nhà xuất khẩu vào thị trường Liên bang Nga phàn nàn và gây sức ép lên Chính phủ. Ngoài ra Chính phủ Liên bang Nga cũng đang phải chịu sức ép về việc thống nhất những tiêu chuẩn của Nga với các tiêu chuẩn quốc tế để có thể gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế WTO.

Ngoài các rào cản chúng ra thì đối với một số mặt hàng xuất khẩu sang Liên bang Nga còn đòi hỏi các yêu cầu khác như giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm đối với hàng thủy sản, hàng rau quả, giấy đảm bảo an toàn sức khỏe cho công nhân đối với hàng giày dép và hàng dệt may. Tuy nhiên các yêu cầu này không ổn định và luôn luôn thay đổi, khiến cho hàng hóa xuất khẩu vào Liên bang Nga gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì thế, cần đặc biệt quan tâm đến hàng rào kỹ thuật, doanh nghiệp nên thông qua các hiệp hội của mình, các cơ quan chuyên nghiệp để nắm bắt thông tin về hàng rào kỹ thuật của thị trường. Đối với thị trường Nga, là một thị trường không khó tính, nhưng Nga đang dần trở nên cạnh tranh gay gắt do có nhiều hàng hóa của nhiều quốc gia được xuất khẩu vào đây. Trong thời gian không xa, việc cạnh tranh đó tự nó sẽ hình thành các tiêu chuẩn kỹ thuật, vô hình tạo nên một “hàng rào kỹ thuật về giá” cho hàng hóa được nhập khẩu vào Nga. Chúng ta nên sớm nhìn nhận xu hướng này để có chiến lược nâng cao chất lượng hàng hóa, đảm bảo trụ vững trên thị trường rộng lớn này.

2.1.3.3. Tham gia và thực hiện các FTAs


Liên bang Nga chính thức gia nhập WTO vào năm 2012. Là một phần của việc gia nhập WTO, Liên bang Nga đã ký Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS). Trước đó, vào năm 2011, tám quốc gia (Nga, Belarus, Ukraine, Moldova, Tajikistan, Armenia, Kazakhstan và Kyrgyzstan) từ Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) đã ký kết và sau đó trong những năm tiếp theo đã phê chuẩn FTA, cung cấp sự di chuyển tự do của hàng hóa trong lãnh thổ của các quốc gia thành viên. Năm 2013,


Uzbekistan đã tham gia bằng cách ký một thỏa thuận riêng với 8 quốc gia nói trên. Năm 2015, Liên bang Nga đình chỉ FTA giữa Liên bang Nga và Ukraine. Đáp lại, vào năm 2016, Ukraine đã bãi bỏ các ưu đãi thương mại đối với hàng hóa từ Liên bang Nga.

Vào ngày 1 tháng 1 năm 2015, (EAEU) được thành lập, kết hợp các quy định trước đây được đặt ra trong Liên minh Hải quan Nga-Kazakhstan-Belarus (CU) được thành lập vào năm 2010, mở rộng các điều khoản thuế quan để bao gồm các dịch vụ và thiết lập thống nhất. tiêu chuẩn và yêu cầu ghi nhãn. Sự gia nhập của Armenia và Kyrgyzstan có hiệu lực lần lượt vào ngày 2 tháng 1 năm 2015 và ngày 12 tháng 8 năm 2015. Vào tháng 10 năm 2016, Hiệp định Thương mại Tự do giữa EAEU và Việt Nam có hiệu lực. Vào tháng 12 năm 2016, các thành viên EAEU đã đồng ý bắt đầu đàm phán FTA với Iran, Ấn Độ, Ai Cập và Singapore.

2.2. Khái quát về FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu

2.2.1. Bối cảnh ra đời của Liên minh kinh tế Á-Âu

Sau khi kết thúc chiến tranh Lạnh và sự sụp đổ của Liên Xô, Nga và các nước cộng hòa Trung Á đối mặt với việc nền kinh tế đang khủng hoảng trầm trọng và sự sụt giảm tăng trưởng GDP. Ngay sau đó, nhiều nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ vẫn giữ quan hệ gần gũi với Nga và hình thành các tổ chức đa phương như Cộng đồng Kinh tế Á Âu, Nhà nước Liên minh Nga Belarus, Cộng đồng Liên minh thuế quan kinh tế Á Âu Belarus, Kazakhstan, Nga, Liên minh Âu Á (thay thế Cộng đồng Kinh tế Á Âu từ ngày 01/01/2015) nhằm tăng cường hợp tác kinh tế, an ninh, để từ đó cải thiện được tình hình sụt giảm trầm trọng của nền kinh tế các nước trong khu vực.

Năm 1999, Belarus, Kazakhstan, Nga, Kyrgyzstan và Tajikistan đã ký hiệp định về Liên minh Thuế quan và Không gian kinh tế thống nhất vì các mục tiêu và các chính sách mà các quốc gia đang theo đuổi để bước đầu hình thành nên Liên Minh Thuế quan Á Âu và Không gian Kinh tế thống nhất

Để tiến xa hơn trong việc liên kết và hợp tác kinh tế, năm 2000, Belarus, Kazakhstan, Nga, Kyrgyzstan và Tajikistan đã thành lập Cộng đồng Kinh tế Á Âu (EurAsEC), Uzbekistan đã tham gia vào năm 2006. Mục tiêu nhằm thành lập một thị trường chung thống nhất cho tất cả các nước thành viên. Cộng đồng Kinh tế Á Âu


được ra đời dựa trên khuôn mẫu của Cộng đồng Kinh tế châu Âu với quy mô dân số trên 171 triệu dân (vào năm 2000). Đây là nền tảng để tiếp tục hoàn thành tiến trình hội nhập tiến tới thành lập một thị trường chung thống nhất.

Đến ngày 01/01/2010, tiến trình hợp tác giữa các quốc gia này được tiến thêm một bước nữa khi Liên minh Hải quan Á Âu (Eurasian Customs Union, viết tắt: EACU) được chính thức thành lập. Liên minh ban đầu gồm Belarus, Kazakhstan, và Nga, sau đó kết nạp thêm Armenia và Kyrgyzstan từ ngày 1 tháng 1 năm 2015.

Liên minh Hải quan được thành lập bước đầu sẽ như là một tổ chức giống với Liên minh châu Âu. Các thành viên sẽ hội nhập nền kinh tế và gỡ bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước sau tháng 6 năm 2011. Ngày 19 tháng 11 năm 2011, các nước thành viên đã đặt ra một nhiệm vụ chung trong việc liên kết các nền kinh tế, kế hoạch thành lập Liên minh kinh tế Á-Âu vào năm 2015. Ngày 1 tháng 1 năm 2012, ba thành viên đã hình thành một không gian kinh tế chung để tiến tới thành lập một liên minh kinh tế thống nhất.

Sự hình thành của Liên minh được xây dựng dựa trên 3 hiệp định vào các năm 1995, 1999 và 2007. Hiệp định đầu tiên vào năm 1995 quyết định việc thành lập Liên minh, vào năm 1999 hiệp định thứ hai được ký kết nêu lên các thức tổ chức, và cuối cùng vào năm 2007 chính thức tuyên bố việc thành lập một khu vực kinh tế xóa bỏ hàng rào thuế quan và việc hình thành Liên minh.

Dựa trên cơ sở thống nhất hai Tổ chức tiền thân là Cộng đồng kinh tế Á Âu và Liên minh Hải quan Á Âu, một liên minh kinh tế giữa Armenia, Kazakhstan, Nga, Belarus và Kyrgyzstan được chính thức ra đời vào ngày 29/05/2014 đó là Liên minh Kinh tế Á Âu (Eurasian Economic Union viết tắt EAEU). Lễ ký kết Hiệp ước về Liên minh Kinh tế Á-Âu được tổ chức tại Astana, Kazakhstan vào ngày 29 tháng 5 năm 2014.

2.2.2. Tiến trình đàm phán FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu

Trong bối cảnh các nước và các khu vực trên thế giới đang đặc biệt quan tâm đến đẩy mạnh phát triển hợp tác với các nước thuộc khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, Liên minh kinh tế Á-Âu cũng đã nhận ra tiềm năng phát triển của thị trường Việt Nam cũng như những nguồn lực về tài nguyên thiên


nhiên và nguồn nhân công dồi dào. Ngược lại, khu vực các nước thuộc Liên minh kinh tế Á-Âu từ trước đến nay vẫn luôn được đánh giá là một thị trường lớn và đầy tiềm năng với trên 180 triệu dân, trữ lượng tài nguyên thiên nhiên phong phú, với tổng GDP đạt trên 2.000 tỷ USD, kim ngạch ngoại thương đạt khoảng 1.000 tỷ USD. Nhận ra được những tiềm lực phát triển của đôi bên, Việt Nam và Liên minh kinh tế Á-Âu đã cùng thống nhất để đi tới quá trình đàm phán hợp tác và thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa các nước trong khu vực, FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu là một trong những hiệp định đánh dấu sự bắt đầu cho tiến trình đó.

Bắt đầu cho tiến trình đàm phán giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á-Âu hiện nay, ngày 28/03/2013 FTA giữa Việt Nam và Liên minh thuế quan Nga – Belarus

– Kazakhstan (Tiền thân của Liên minh kinh tế Á-Âu) chính thức được khởi động quá trình đàm phán. Sau tổng cộng 8 vòng đàm phán chính thức và nhiều vòng không chính thức, chiều 14/12/2014, hai bên đã đã thống nhất ký thông báo kết thúc cơ bản đàm phán, tiếp tục thúc đẩy quá trình trao đổi, tham vấn nội bộ để nhanh chóng hoàn tất những vấn đề kỹ thuật còn lại nhằm có thể ký kết VCUFTA vào đầu năm 2015. Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán, vào ngày 29/05/2014, ba nước Nga – Belarus

– Kazakhstan đã thành lập Liên minh kinh tế Á-Âu thay cho Liên minh thuế quan giữa ba nước trước đây và kết nạp thêm hai thành viên mới là Cộng hòa Armenia và Cộng hòa Kyrgyzstan. Sau đó tiến trình đàm phán cho Hiệp định giữa Việt Nam và Liên minh Thuế quan Á Âu (hiện nay là Liên minh kinh tế Á-Âu) vẫn được tiếp diễn theo đúng tiến độ, ngày 29/05/2015 FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu đã được hai Bên thông qua và ký kết chính thức. Sau khoảng nửa năm đàm phán tích cực, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ cũng như Lãnh đạo Bộ Công Thương, Tổ Công tác đã hoàn tất đàm phán và các Trưởng đoàn đàm phán đã ký tắt Nghị định thư về ô tô giữa Việt Nam và Nga vào ngày 15 tháng 01 năm 2016 tại Moskva, Nga và Nghị định thư về ô tô giữa Việt Nam và Belarus vào ngày 20 tháng 1 năm 2016 tại Minsk, Belarus. Tiếp theo đó, lần lượt các nước trong Liên minh kinh tế Á-Âu là Kazakhstan, Nga, Belarus, Armenia đã ký kết sắc lệnh phê chuẩn Hiệp định. Cuối cùng vào ngày 05/10/2016, FTA giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á-Âu đã chính thức có hiệu lực, mở ra một giai đoạn mới trong việc phát triển thương mại, góp phần


tạo thêm động lực để tăng trưởng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia EAEU bao gồm: Nga, Armenia, Belarus, Kazakhstan và Kyrgyzstan.

2.2.3. Nội dung chính của FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu

Về tổng thể, Liên minh kinh tế Á-Âu và Việt Nam sẽ dành cho nhau mức mở cửa thị trường hàng hóa chiếm khoảng 90% số dòng thuế, tương đương vào khoảng trên 90% kim ngạch thương mại song phương. Ngoài ra, FTA này cũng quy định các biện pháp nhằm tăng tính minh bạch của các hoạt động quản lý Nhà nước trong thương mại, tăng cường hợp tác giữa các cơ quan quản lý Nhà nước của hai bên về hải quan, quản lý chất lượng, kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, FTA cũng có một chương quy định về thương mại dịch vụ, đầu tư và di chuyển thể nhân.

Cụ thể, FTA Việt Nam – Liên Minh kinh tế Á-Âu bao gồm 15 chương chính, bao gồm:

- Nhóm về hàng hóa: Các Chương Thương mại hàng hóa, Quy tắc xuất xứ, Phòng vệ thương mại, Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), Thuận lợi hóa và hải quan.

- Nhóm khác: Các Chương Thương mại dịch vụ, Đầu tư, Sở hữu trí tuệ, Thương mại điện tử, Cạnh tranh, Pháp lý và thể chế. Riêng Chương Thương mại dịch vụ, Đầu tư và di chuyển thể nhân được đàm phán song phương giữa Việt Nam và Liên bang Nga và các cam kết đạt được chỉ áp dụng song phương giữa hai nước (không áp dụng cho các đối tác khác trong Liên minh kinh tế Á-Âu).

- Các Phụ lục về mở cửa thị trường Hàng hóa, Dịch vụ, Đầu tư, Quy tắc xuất xứ với 11,360 dòng thuế được đàm phán.

2.2.4. Các cam kết của Liên minh kinh tế Á-Âu trong hiệp định

2.2.4.1. Cam kết về thuế quan


Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa (qua loại bỏ thuế quan) của Liên minh kinh tế Á-Âu cho Việt Nam có thể chia thành các nhóm sau:


- Nhóm loại bỏ thuế quan ngay sau khi hiệp định có hiệu lực (EIF): Gồm 6,718 dòng thuế, chiếm khoảng 59% biểu thuế.

- Nhóm loại bỏ thuế quan theo lộ trình cắt giảm từng năm và sẽ loại bỏ thuế quan ở năm cuối của lộ trình (muộn nhất là đến 2025): Gồm 2,876 dòng thuế, chiếm khoảng 25% biểu thuế.

- Nhóm giảm ngay sau khi FTA có hiệu lực 25% so với thuế hiện tại và sau đó giữ nguyên: Bao gồm 131 dòng thuế, chiếm khoảng 1% biểu thuế.

- Nhóm không cam kết (N/U): Bao gồm 1,453 dòng thuế, chiếm 13% biểu thuế (nhóm này được hiểu là Liên minh kinh tế Á-Âu không bị ràng buộc phải loại bỏ hay giảm thuế quan, nhưng có thể đơn phương loại bỏ/giảm thuế nếu muốn).

- Nhóm áp dụng biện pháp Phòng vệ ngưỡng (Trigger): Gồm 180 dòng thuế, chiếm khoảng 1.58% biểu thuế. Đây là biện pháp nửa giống Hạn ngạch thuế quan (có ngưỡng giới hạn về số lượng), nửa giống Phòng vệ (có thủ tục tham vấn đánh giá về khả năng gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nơi nhập khẩu). Sản phẩm áp dụng gồm một số sản phẩm trong nhóm Dệt may, Da giầy và Đồ gỗ được quy định trong Phụ lục về các sản phẩm áp dụng Biện pháp phòng vệ ngưỡng trong Hiệp định.

Quy tắc áp dụng biện pháp Phòng vệ ngưỡng: Đối với mỗi sản phẩm, mỗi năm sẽ áp dụng một ngưỡng mà nếu khối lượng nhập khẩu sản phẩm đó vào Liên minh kinh tế Á-Âu vượt quá ngưỡng quy định cho năm đó thì phía Liên minh sẽ ngay lập tức thông báo bằng văn bản cho phía Việt Nam. Nếu quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ ngưỡng, Liên minh kinh tế Á-Âu phải thông báo cho Việt Nam ít nhất là 20 ngày kể từ ngày ra quyết định, và biện pháp phòng vệ ngưỡng sẽ chỉ có hiệu lực ít nhất sau 30 ngày kể từ ngày quyết định áp dụng được đưa ra. Nếu bị áp dụng biện pháp phòng vệ ngưỡng, các sản phẩm liên quan sẽ không được hưởng thuế suất ưu đãi theo Hiệp định nữa mà sẽ bị áp thuế MFN trong thời hạn hiệu lực của quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ ngưỡng.

Thời gian áp dụng biện pháp phòng vệ ngưỡng: Thông thường Quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ ngưỡng có hiệu lực trong 6 tháng; nhưng nếu khối lượng nhập khẩu sản phẩm bị áp dụng biện pháp phòng vệ ngưỡng vượt quá 150% mức


ngưỡng theo quy định vào ngày bắt đầu áp dụng biện pháp phòng vệ ngưỡng, thì thời gian áp dụng biện pháp này có thể được kéo dài thêm 3 tháng.

- Nhóm Hạn ngạch thuế quan: chỉ bao gồm 2 sản phẩm là Gạo và Lá thuốc lá chưa chế biến.

1.580%

12.790%

1.150%

.020%

Nhóm loại bỏ thuế quan ngay

Nhóm loại bỏ thuế quan theo lộ trình


25.320%

Nhóm chỉ giảm 25% sau khi Hiệp định có hiệu lực

Nhóm không cam kết

59.140%

Nhóm áp dụng biện pháp phòng vệ ngưỡng

Nhóm hạn ngạch thuế quan

Hình 2.7. Cam kết mở cửa hàng hóa Liên minh kinh tế Á-Âu theo dòng thuế


Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 2016


Ngoài ra, xét theo kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, ta có tỷ lệ các nhóm mặt hàng được cam kết mở cửa theo từng mức độ theo biểu đồ dưới đây:

4.200% .600%

.100% 10.500%

.300%


84.300%


Nhóm loại bỏ thuế quan ngay


Nhóm loại bỏ thuế quan theo lộ trình

Nhóm chỉ giảm 25% sau khi Hiệp định có hiệu lực

Nhóm không cam kết


Nhóm áp dụng biện pháp phòng vệ ngưỡng

Nhóm hạn ngạch thuế quan


Hình 2.8. Cam kết mở cửa hàng hóa Liên minh kinh tế Á-Âu theo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào năm 2015

Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 2016


Từ Hình 1.2 có thể thấy, nhóm hàng hóa được loại bỏ thuế quan ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực chiếm đến 84.3% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhóm


không cam kết chiếm 10.5%, Nhóm áp dụng biện pháp phòng vệ ngưỡng là 4.2% tổng kim ngạch xuất khẩu. Ngoài ra, tổng ba nhóm còn lại là nhóm loại bỏ thuế quan theo lộ trình, nhóm chỉ giảm 25% sau khi Hiệp định có hiệu lực và nhóm hạn ngạch thuế quan chỉ chiếm 1% trên tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2015.

Bảng 2.1. Cam kết mở cửa của Liên minh kinh tế Á-Âu cho một số sản phẩm chủ lực của Việt Nam



Sản phẩm

Tỷ lệ

dòng thuế cắt giảm


Tỷ lệ dòng thuế xóa bỏ hoàn toàn

Tỷ lệ dòng thuế xóa bỏ ngay sau khi có hiệu

lực


Chú ý

Dệt may

82%

42% - Lộ trình 10 năm

36%

Có áp dụng cơ chế

phòng vệ ngưỡng

Giày

dép

77%

73% - Lộ trình 5 năm


Có áp dụng cơ chế

phòng vệ ngưỡng

Túi xách

100%

100%

Phần lớn


Thủy

sản

100%

95% - Lộ trình 10 năm

71%


Đồ gỗ

76%

65% - Lộ trình 10 năm


Có áp dụng cơ chế

phòng vệ ngưỡng

Nhựa

100%

97%



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.

Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu - 8

Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 2016

2.2.4.2. Các cam kết về xuất xứ


Quy tắc xuất xứ: Để được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định này, hàng hóa phải đáp ứng được các quy tắc xuất xứ của Hiệp định. Cụ thể, hàng hóa sẽ được coi là có xuất xứ tại một Bên (Việt Nam hoặc Liên minh kinh tế Á-Âu) nếu: Có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại một Bên; hoặc được sản xuất toàn bộ tại một hay hai bên, từ những nguyên vật liệu có xuất xứ từ một hay hai Bên; hoặc được sản xuất tại một Bên, sử dụng nguyên vật liệu không có xuất xứ nội khối nhưng đáp ứng được các yêu cầu về Quy tắc xuất xứ cụ thể từng mặt hàng được quy định trong Hiệp định. Nói chung, Quy tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng trong FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu đơn giản, thông thường hàng hóa chỉ cần có hàm lượng giá trị gia

Xem tất cả 178 trang.

Ngày đăng: 22/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí