Tổng Quan Về Ngân Hàng Thương Mại‌


Đề xuất một số giải pháp để khắc phục điểm yếu, tăng cường năng lực cạnh tranh trong dịch vụ huy động vốn của Vietinbank nói chung và Vietinbank – Chi nhánh TP.HCM nói riêng.

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1 1 TỔNG 1



CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI



1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.

1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại

Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Ngân hàng bao gồm nhiều loại hình tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Sự ra đời của hệ thống NHTM có tác động rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế hàng hóa và ngược lại, kinh tế hàng hoá phát triển thì hoạt động NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và ngân hàng trở thành tổ chức không thể thiếu trong nền kinh tế.

Quan điểm về NHTM của Việt Nam được quy định tại Luật các tổ chức tín dụng (Số 20/2004/QH): NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan; trong đó quy định rò: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.

Như vậy, có thể hiểu: NHTM là một Tổ chức kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay, làm phương tiện thanh toán và thực hiện các dịch vụ theo uỷ thác của khách hàng.

Vậy thế nào là “Dịch vụ ngân hàng”? Tại khoản 7, điều 20 - Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi, bổ sung năm 2004) có nhắc đến nhóm từ “Dịch vụ ngân hàng” như sau: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.

Trong Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), có định nghĩa: Một “dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp”. Dịch vụ tài chính bao gồm: dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm). Như vậy, dịch vụ ngân hàng là một bộ phận cấu thành


dịch vụ tài chính và trong bảng phân ngành dịch vụ của WTO

Như vậy, khái niệm dịch vụ ngân hàng chưa được đề cập tới một cách đầy đủ trong Luật Các tổ chức tín dụng Việt Nam, nhưng theo thông lệ quốc tế, dịch vụ ngân hàng có thể hiểu là toàn bộ các dịch vụ liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối… thuộc 11 phân ngành mà hệ thống các ngân hàng cung ứng cho nền kinh tế. Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ đi sâu phân tích dịch vụ ngân hàng liên quan đến huy động vốn và một số dịch vụ hỗ trợ huy động vốn. Trong đó chú trọng nghiên cứu các giải pháp để phát triển nhóm dịch vụ này.

1.1.2. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Huy động vốn

Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. NHTM có thể huy động vốn trong nền kinh tế từ nhiều kênh khác nhau.

Vốn chủ sở hữu

Đây là nguồn vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên cơ sở vật chất của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu được hình thành từ vốn góp ban đầu của các chủ sở hữu và không ngừng tăng lên trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng có thể tăng vốn của chủ sở hữu trong quá trình hoạt động thông qua việc chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư và thông qua việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm.

Hoạt động huy động tiền gửi

Khi ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. Các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng thông qua việc mở tài khoản để được ngân hàng cung ứng các dịch vụ về ngân quỹ, thu chi tài vụ một cách nhanh chóng và an toàn. Đối với khách hàng trong dân cư, việc mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, ngoài việc được đáp ứng tất cả các dịch vụ thanh toán khi phát


sinh, khách hàng còn được cung ứng một loạt các dịch vụ đa dạng về tài chính có khả năng sinh lời. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể huy động vốn từ các ngân hàng khác tuy nhiên quy mô nguồn này không lớn.

Hoạt động đi vay

Phản ánh quá trình tạo ra nguồn vốn bằng cách vay các tổ chức tín dụng, vay NHNN và vay trên thị trường vốn. Ngân hàng vay vốn của NHNN nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM dưới hình thức tái chiết khấu. Ngân hàng cũng có thể vay vốn trên thị trường vốn như các doanh nghiệp thông qua việc phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) để bù đắp phần thiếu hụt nguồn vốn trung dài hạn. Các tổ chức tín dụng có thể vay mượn lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân hàng nhưng phải có đối ứng bằng ngoại tệ hoặc tài sản.

Huy động vốn khác

Thông qua nghiệp vụ NHTM có thể tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay ủy thác vốn cho các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.

1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn

NHTM là nơi cung cấp vốn, đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng trong xã hội để các doanh nghiệp và cá nhân vay vốn góp phần mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hoạt động này không chỉ đem lại lợi ích cho những người dư thừa vốn và những người thiếu vốn mà còn đem lại lợi ích kinh tế cho bản thân nó và nền kinh tế. Đối với ngân hàng, họ sẽ tìm được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở cho NHTM tồn tại và phát triển.

Hoạt động cho vay

Cho vay là một hoạt động tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của ngân hàng. Ngay từ thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho


vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. Sự gia tăng thu nhập và nhu cầu của người tiêu dùng cùng với sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình. Hiện nay, cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình có tốc độ tăng trưởng cao ở các nước có nền kinh tế phát triển. Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng còn thực hiện tài trợ cho các dự án xây dựng nhà xưởng, đầu tư máy móc thiết bị. Hoạt động đầu tư dự án có rủi ro cao song lợi nhuận thu được của ngân hàng lớn. Hoạt động cho vay được phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả...

Hoạt động đầu tư

Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, NHTM còn sử dụng vốn để đầu tư. Ngân hàng có thể đầu tư vào việc mua bán chứng khoán, góp vốn vào các doanh nghiệp hoặc đầu tư vào trang thiết bị tài sản cố định phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.

1.1.2.3. Hoạt động dịch vụ trung gian

Là trung gian tài chính ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những lợi thế đó là ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh toán cho khách hàng thông qua các hình thức như séc, thẻ thanh toán ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hoặc dựa trên việc hạch toán vào các tài khoản có liên quan đến đối tượng đó.

Cung cấp các tài khoản giao dịch và và thực hiện thanh toán

Các ngân hàng nhận tiền gửi từ các chủ thể của nền kinh tế không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ, khách hàng nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách (còn được gọi là séc), khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ….


Bảo quản vật có giá

Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng. Đó là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.

Các nghiệp vụ trung gian khác

Ngoài các hoạt động dịch vụ nêu trên, ngân hàng còn cung cấp cho các chủ thể kinh tế các dịch vụ: ủy thác, bảo quản hộ các chứng từ có giá cho khách hàng thuê két sắt, dịch vụ đại lý….

Tóm lại, các hoạt động của ngân hàng có liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn hiệu quả.

1.1.3. Đặc điểm dịch vụ ngân hàng

Các dịch vụ ngân hàng nói chung có những đặc điểm như sau:

Tính vô hình: là đặc điểm khác biệt giữa sản phẩm dịch vụ ngân hàng với các sản phẩm hữu hình của các ngành sản xuất vật chất khác. Trong đó yếu tố vô hình là chất lượng phục vụ, sự thuận tiện trong giao dịch, uy tín... hàm chứa trong sản phẩm nhưng khách hàng khó nhận ra và khó phân biệt giữa các nhà cung cấp (các ngân hàng) với đẳng cấp tương đương. Chính đặc điểm này làm cho tính cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng rất cao. Để thu hút và giữ khách hàng, các NHTM cần tạo niềm tin, uy tín với khách hàng, đưa ra các tiện ích tăng thêm trong từng dịch vụ và không ngừng củng cố quan hệ đối với khách hàng.


Tính không thể chia cắt: hoạt động cung cấp dịch vụ của ngân hàng và hoạt động sử dụng dịch vụ của khách hàng xảy ra cùng lúc và thường được tiến hành dựa trên những qui trình nhất định, theo những thứ tự nhất định. Khi khách hàng có nhu cầu, sản phẩm sẽ được cung ứng trực tiếp cho họ.

Tính khó xác định và không ổn định: một sản phẩm dịch vụ ngân hàng mà việc thực hiện nó dù đơn giản hay phức tạp, qui mô sản phẩm (về doanh số, số lượng...) nhỏ hay lớn đều không đồng nhất về chất lượng, thời gian hoàn thành hoặc phương thức thực hiện khi được thực hiện bởi những nhân viên ngân hàng khác nhau. Hoặc cùng một khách hàng nhưng trong những lần giao dịch khác nhau sẽ có những cảm nhận khác nhau về chất lượng, vì có thể sự cảm nhận khác nhau về sự thuận lợi trong các lần giao dịch, cảm giác an toàn, tin tưởng khi giao dịch, trình độ nghiệp vụ và thái độ thực hiện giao dịch của các nhân viên ngân hàng khác nhau… Các yếu tố này cấu thành và tạo nên chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, nhưng lại bất ổn, chịu sự tác động, chi phối bởi hoàn cảnh khách quan và chưa lượng hoá chính xác được, ví dụ như cùng một nhân viên, thực hiện cùng một nghiệp vụ nhưng chất lượng phục vụ khác nhau giữa mỗi lần giao dịch do yếu tố thay đổi của sức khoẻ, tâm lý, chất lượng công nghệ khi thực hiện giao dịch...

1.2. HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại

Vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các NHTM. Đó là khoản hình thành nên tài sản của ngân hàng, giúp cho ngân hàng hoạt động một cách hiệu quả. Vốn của ngân hàng là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.

Có thể phân chia vốn của NHTM thành nhiều loại khác nhau dựa trên những tiêu thức nhất định: theo thời gian (vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn dài hạn), theo nguyên tệ (vốn nội tệ và vốn ngoại tệ), theo đặc điểm của vốn bao gồm nợ và tiền vay… Nếu theo bảng tổng kết tài sản nguồn vốn của NHTM được chia thành: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn vay và các nguồn vốn khác

1.2.2. Phương thức huy động vốn

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/06/2022