Vai Trò Của Huy Động Vốn Đối Với Ngân Hàng Thương Mại‌


1.2.2.1. Vốn chủ sở hữu‌

Vốn chủ sở hữu do các chủ sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận để lại. Tuy chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng có tính ổn định cao, thường không phải hoàn trả. Do tính chất ổn định, nó thực hiện chức năng thành lập, bảo vệ và điều chỉnh đối với hoạt động ngân hàng. Vốn chủ sở hữu thường chiếm dưới 10% tổng nguồn vốn của ngân hàng. Để bảo đảm hoạt động an toàn hiệu quả, mức vốn tự có của ngân hàng không nhỏ hơn 8% trên tổng tài sản có rủi ro quy đổi, điều này nói lên rằng chức năng chủ yếu của khối lượng giới hạn vốn chủ sở hữu đã được xem như là tài sản bảo vệ cho những người gửi tiền. Chức năng bảo vệ không chỉ được xem như sự bảo đảm thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng vỡ nợ, mà còn góp phần duy trì khả năng trả nợ, bằng cách cung cấp một khoản tài sản có dự trữ để ngân hàng khỏi bị đe dọa bởi sự thua lỗ, để có thể tiếp tục hoạt động.

Ngoài việc cung cấp nền tảng cho các hoạt động và để bảo vệ người gửi tiền. Chức năng điều chỉnh cũng đã được xác định cho vốn chủ sở hữu của NHTM. Dựa trên mức vốn tự có của ngân hàng, các cơ quan quản lý xác định, điều chỉnh hoạt động cho ngân hàng ví dụ như hiện nay các ngân hàng chỉ có thể cho một khách hàng lớn nhất vay không quá 15% vốn tự có của ngân hàng.

Ngân hàng cũng như bất kỳ loại hình doanh nghiệp khác vốn chủ sở hữu bao gồm ba bộ phận chủ yếu: Vốn góp ban đầu, Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia và Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động

1.2.2.2. Vốn huy động từ nền kinh tế

Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh

Tiền gửi thanh toán

Tiền gửi thanh toán còn gọi là tiền gửi có thể phát hành séc (tiền gửi giao dịch, tiền gửi theo yêu cầu). Mục đích gửi khoản tiền vào ngân hàng không phải để hưởng lãi mà là nhằm sử dụng các tiện ích do ngân hàng cung cấp như thanh toán hộ,


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.


chi trả hộ, thu hộ. NHTM buộc các khách hàng nếu muốn được ngân hàng cung cấp các dịch vụ thì cần phải ký quỹ một lượng tiền tối thiểu, đồng thời với những khoản tiền gửi vào tài khoản thanh toán phải có thời gian nhất định mới được rút ra để thanh toán điều đó giúp ngân hàng có thể sử dụng lượng vốn này.

Nguồn vốn này có đặc điểm là tính ổn định thấp, thời gian sử dụng ngắn phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời vụ hoặc địa bàn hoạt động của ngân hàng và ngân hàng phải chủ động trả cho khách hàng bất cứ lúc nào nhưng ngược lại chi phí huy động của nguồn vốn này rất thấp. Thời kỳ đầu ngân hàng còn thu phí trên số dư tiền gửi này nhưng về sau để khuyến khích khách hàng gửi tiền, ngân hàng không thu phí, hiện nay để cạnh tranh với nhau các ngân hàng còn trả tiền lãi cho các số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng. Khi sử dụng nguồn vốn tiền gửi thanh toán ngân hàng phải thận trọng nếu không rủi ro chi trả sẽ xảy ra, điều này có thể làm giảm uy tín ngân hàng, hoặc phải tốn chi phí để đi vay.

Tiền gửi có kỳ hạn

Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng về thời hạn gửi tiền. Trong khoảng thời gian đó ngân hàng có quyền chủ động sử dụng số tiền đó khi khách hàng muốn rút tiền trước thời hạn cần phải báo trước và phải được sự chấp thuận của ngân hàng. Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh do các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội tạo ra từ các quỹ như quỹ khấu hao, quỹ đầu tư, từ các nguồn thu nhập của doanh nghiệp… khi họ biết trước được thời điểm sử dụng tiền, họ gửi những khoản tiền này vào ngân hàng nhằm mục đích thu lợi và an toàn.

Chi phí huy động của loại tiền gửi này thường cao nhưng bù lại tính ổn định của nguồn vốn này lại cao Ngân hàng có thể yên tâm sử dụng mà không sợ bị rủi ro về khả năng chi trả.

Tiền gửi tiết kiệm

Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền do dân cư gửi vào ngân hàng với mục đích an toàn và sinh lợi đây thường là khoản tiền gửi có tỷ trọng cao nhất trong tổng số tiền gửi của ngân hàng và có tính ổn định cao nhất. Đây là nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng của dân cư, mục đích của người gửi tiền là nhằm hưởng lãi suất


do đó yếu tố được người gửi quan tâm nhất là lãi suất. Lãi suất chi trả cho người gửi tiết kiệm bao giờ cũng là cao nhất. Chính vì vậy huy động nguồn vốn này sẽ có chi phí huy động lớn nhất.

Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn, sự thay đổi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng. Qui mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác, thông thường chiếm trên 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng.

Tiền gửi là đối tượng phải dự dữ bắt buộc, do vậy, chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi tiền. Trong điều kiện có lạm phát, người có tiền tiết kiệm thường quan tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Các yếu tố khác như địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy động đa dạng, các dịch vụ đa dạng… đều ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc của nguồn tiền. Thời vụ chi tiêu ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Như vậy, để huy động được nguồn tiền gửi có kỳ hạn, ngân hàng cần phải nghiên cứu đặc điểm thị trường nguồn tiền để có biện pháp quản lý và sử dụng thích ứng.

Phát hành giấy tờ có giá

Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi, các NHTM còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu. Thực chất các nghiệp vụ này là ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng việc phát hành chứng từ có giá với kỳ hạn và khoản lãi được hưởng hấp dẫn in trên giấy tờ có giá. Hình thức huy động này được thực hiện với mục đích sử dụng vốn với số lượng và thời gian phát hành nhất định khi cần thiết. Việc huy động thông qua chứng chỉ tiền gửi thường có tính ổn định cao, quyền đòi tiền xếp sau các loại tiền gửi khác. Huy động vốn bằng việc phát hành giấy tờ có giá thường có lãi suất hấp dẫn hơn các loại tiền gửi có cùng kỳ hạn; vì vậy, chi phí


vốn cho việc huy động nguồn vốn bằng cách này rất cao, tuy nhiên “tính lỏng” của loại vốn này lại cao vì có thể được mua bán thị trường vốn và có tính ổn định.

Một số giấy tờ có giá thường được NHTM phát hành huy động vốn là trái phiếu, kỳ phiếu và chứng chỉ tiền gửi.

Trái phiếu là cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân hàng khi phát hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Việc phát hành trái phiếu chịu sự quản lý của Ngân hàng Trung ương, các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và bị chi phối bởi uy tín của ngân hàng.

Kỳ phiếu là loại giấy tờ có giá ngắn hạn (trong 1 năm). Nó có đặc điểm giống như trái phiếu nhưng có thời hạn ngắn hơn trái phiếu, vì vậy nó được sử dụng cho mục đích huy động vốn ngắn hạn của ngân hàng.

Chứng chỉ tiền gửi là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một ngân hàng. Người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ và nhận đủ vốn khi đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường tiền tệ.

1.2.2.3. Vốn vay

Vào một số thời điểm nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng vượt quá khả năng huy động vốn của ngân hàng, ngân hàng có thể vay các tổ chức tín dụng khác hoặc ngân hàng trung ương.

Tỷ trọng nguồn tiền vay trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn tiền gửi, các khoản đi vay thường là có thời hạn và quy mô xác định trước nên tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Ngân hàng chỉ thực hiện đi vay lúc cần thiết và hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng, nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi với cùng kỳ hạn. Các khoản vay NHNN và vay ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao. Nguồn vốn đi vay của ngân hàng chủ yếu có 02 nguồn chính là vay từ các tổ chức tín dụng khác và vay ngân hàng trung ương:


Vay từ các tổ chức tín dụng khác

Các ngân hàng thực hiện vay vốn lẫn nhau thông qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Lãi suất đi vay phụ thuộc vào quy mô món vay, thị trường và kỳ hạn. Nguồn tiền đi vay không phải dự trữ bắt buộc, không cần bảo hiểm tiền gửi đồng thời ngân hàng cũng chủ động được thời gian hoàn lại, kỳ hạn của khoản vay có thể rất ngắn (qua đêm) nhưng lãi suất của các nguồn tiền này cao hơn so với các nguồn tiền huy động khác.

Vay từ ngân hàng trung ương

NHTM có thể vay từ ngân hàng trung ương qua các hình thức như chiết khấu, tái chiết khấu, hình thức vay này thông qua thị trường mở. NHTM thường nắm giữ một lượng giấy tờ có giá, khi cần tiền mặt, NHTM thực hiện cầm cố tại ngân hàng trung ương. NHTM còn có thể vay từ các nguồn ngắn hạn như vay để bù đắp dự trữ thiếu hụt, nâng cao khả năng thanh toán, nâng cao khả năng thanh khoản. Các khoản vay này thường là trong thời gian rất ngắn. Trong những trường hợp đặc biệt các ngân hàng vẫn có thể vay ngân hàng trung ương để cho vay lại nền kinh tế theo chỉ định của Nhà nước với một mức lãi suất ưu đãi nhưng khoản vay này thường bị hạn chế về số lượng đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt chặt.

Lãi suất vay từ ngân hàng trung ương thường là ưu đãi nhưng để vay được nguồn vốn này lại phụ thuộc vào chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. Thông qua lãi suất chiết khấu mà ngân hàng trung ương có thể điều chỉnh được cung tiền tệ cũng như cơ cấu nguồn vốn của NHTM.

1.2.2.4. Các nguồn khác

Các nguồn vốn này thường không lớn, việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi khả năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác.

Vốn ủy thác

Đây là nguồn được hình thành do các tổ chức, cá nhân ủy thác tiền, tài sản vào ngân hàng nhờ ngân hàng cho vay (ủy thác cho vay), đầu tư (ủy thác đầu tư), giải ngân (ủy thác giải ngân)... Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương,



rất nhiều tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn ủy thác, làm gia tăng nguồn vốn cho ngân hàng. Nguồn này khá ổn định, các ngân hàng thực hiện hộ khách hàng và hưởng hoa hồng, không phải trả lãi; tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể như phải tìm kiếm các chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ, nghiên cứu dự án mà họ tài trợ…

Vốn trong thanh toán

Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn vốn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở LC…). Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có thể kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay

Ngoài ra, nguồn vốn của ngân hàng còn được hình thành từ nghiệp vụ mua, bán, quản lý tài sản hộ. Khi NHTM càng phát triển nghiệp vụ trung gian càng nhiều thì nguồn này chiếm tỷ trọng càng lớn.

1.2.3. Vai trò của huy động vốn đối với ngân hàng thương mại‌

1.2.3.1. Mô hình Nhân – Quả

Mô hình Nhân – Quả thể hiện mối quan hệ giữa Nguồn Vốn và Thu Nhập trong hoạt động của một ngân hàng thương mại. Theo mô hình này thì nguồn vốn bao gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi có kỳ hạn là nhân (là nguyên nhân) thu nhập là quả (là kết quả). Trong đó: tiền gửi thanh toán (TGTT) là nền tảng tạo ra thu nhập tiền gửi có kỳ hạn (TGCKH) là nền tảng tạo ra ổn định.

Huy động vốn sinh ra hoạt động cho vay/đầu tư và hoạt động dịch vụ. Hoạt động cho vay/đầu tư và hoạt động dịch vụ lại sinh ra thu nhập. Tuy nhiên, chỉ có hoạt động cho vay là có tác động trở lại đối với hoạt động tiền gửi thanh toán thông qua việc quản lý nguồn thu của các khách hàng là đối tác của hoạt động cho vay/đầu tư.

Từ đó, ta có thể kết luận rằng:

(i). Thu nhập của một ngân hàng phụ thuộc và tỷ lệ thuận với tiền gửi thanh toán. Một ngân hàng để tăng thu nhập, cần có biện pháp tăng tiền gửi thanh toán. Do


tăng tiền gửi thanh toán sẽ làm tăng tiền gửi có kỳ hạn, tăng hoạt động động dịch vụ, tăng hoạt động đầu tư/cho vay và vì thế, tăng thu nhập.

(ii). Để ngân hàng tăng trưởng ổn định, cần có biện pháp tăng tiền gửi có kỳ hạn. Do tăng tiền gửi kỳ hạn sẽ làm tăng hoạt động cho vay; mà tăng hoạt động cho vay sẽ làm tăng tiền gửi thanh toán (trở về kết luận (i). nêu trên), tăng hoạt động dịch vụ và tăng thu nhập, dẫn đến tăng trưởng ổn định.

Thông qua mô hình nhân quả này, ta thể thấy mức độ quan trọng của công tác nguồn vốn trong hoạt động ngân hàng. Việc áp dụng mô hình này sẽ đem lại nhiều lợi ích, cụ thể:

(i). Tăng thu nhập ổn định

(ii). Nguồn vốn được sử dụng một cách tối ưu hóa để tạo lợi nhuận.

(iii). Phát triển đồng bộ các hoạt động dịch vụ ngân hàng (huy động vốn; cho vay/đầu tư; dịch vụ khác).

Hình 1.1. Mô hình Nhân – Quả


ĐƯỜNG THU NHẬP ĐƯỜNG DỊCH VỤ DỊCH VỤ THU CHO VAY ĐẦU TƯ ĐƯỜNG CHO 1

ĐƯỜNG THU NHẬP


ĐƯỜNG DỊCH VỤ



DỊCH VỤ


THU

CHO VAY ĐẦU TƯ


ĐƯỜNG CHO VAY/ĐẦU TƯ


ĐƯỜNG NGUỒN VỐN THANH TOÁN

TG THANH


TG KỲ HẠN

ĐƯỜNG NGUỒN VỐN KỲ HẠN



Vietinbank HCM muốn tăng trưởng bền vững, trước hết, cần phải xác định mục tiêu chiến lược trong công tác nguồn vốn và quán triệt đến từng cán bộ nhân viên trong ngân hàng về tầm quan trọng của công tác nguồn vốn cũng như mục tiêu chiến lược đề ra như sau:

(i). Gia tăng thị phần của chi nhánh trên địa bàn một cách bền vững. (ii). Thu nhập tăng trưởng một cách ổn định.

(iii). Tạo sự phát triển đồng bộ các hoạt động dịch vụ ngân hàng (huy động vốn; cho vay/đầu tư; dịch vụ khác).

1.2.3.2. Vốn là điều kiện để thành lập, tổ chức hoạt động kinh doanh

Đối với bất cứ loại hình kinh doanh nào, vốn là điều kiện tiên quyết để duy trì hoạt động của doanh nghiệp. Vốn phản ánh năng lực cũng như quyết định khả năng phát triển của doanh nghiệp.

Đối với Ngân hàng, vốn còn là cơ sở nền tảng để tiến hành tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Thật vậy, với đặc trưng của ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn thì vốn không còn đơn thuần là phương tiện kinh doanh mà nó còn là đối tượng kinh doanh chính của NHTM, trực tiếp quyết định tới quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Như vậy, những ngân hàng có vốn lớn sẽ có nhiều thế mạnh trong kinh doanh, ngược lại những ngân hàng có ít vốn cũng đồng nghĩa với việc gặp nhiều khó khăn khi tiến hành kinh doanh.

Muốn mở rộng hoạt động kinh doanh, NHTM cần liên tục bổ sung, tăng trưởng vốn. Ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn huy động và vốn huy động cũng chiếm khoảng hơn 90% tổng nguồn vốn của ngân hàng. Do đó, để đảm bảo hoạt động kinh doanh thông suốt ngân hàng cần tăng cường huy động vốn để thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể kinh tế phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng và cá nhân, doanh nghiệp.

1.2.3.3. Đảm bảo khả năng thanh toán và uy tín của ngân hàng

Hoạt động kinh doanh của ngân hàng có liên quan đến toàn bộ nền kinh tế. Khả năng thanh toán là một chỉ số quyết định sự tồn tại của ngân hàng. Khả năng

Xem tất cả 130 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí