Khái Niệm Về Năng Lực Phát Hiện Và Giải Quyết Vấn Đề Thực Tiễn


và công nhận KNN quốc gia [78]; Năm 2009 cuốn sách “Công nghệ giáo dục kỹ thuật và dạy nghề” được dịch từ nguyên bản tiếng Pháp do Bộ Giáo dục của Quebec Canada biên soạn nhằm giúp các quốc gia thuộc khối các nước nói tiếng Pháp đẩy mạnh giáo dục kỹ thuật và dạy nghề. Trong đó chỉ có đề cập một cách có hệ thống về tiếp cận năng lực trong thiết kế đề án đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo, đồng thời xác định hai chức năng của quá trình đánh giá gồm hỗ trợ người học và công nhận kết quả học tập [3]. Nhưng các tác giả cũng chưa nghiên cứu về vấn đề dạy học theo định hướng phát triển NL PH&GQVD thực tiễn trong đào tạo nghề.

Nhận xét chung: Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về năng lực GQVĐ thực tiễn, vấn đề sáng tạo, các tình huống thực tế...nhưng ở nước ta chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện và cụ thể nào tập trung vào phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề thực tiễn trong đào tạo nghề, cụ thể là ngành Điện công nghiệp.

Trong đào tạo nghề năng lực PH&GQVĐ phải gắn liền với thực tiễn, đây là một năng lực hết sức quan trọng, giúp sinh viên có tay nghề cao sau khi ra trường, nói một cách khác là giúp cho sinh viên có khả năng hành nghề sau khi ra trường tiếp xúc với môi trường thực tế nghề nghiệp.

Đối với sinh viên các khối kỹ thuật thì việc hình thành các kỹ năng nghề nghiệp dựa trên các kiến thức được học là rất quan trọng. Các cơ sở GDNN phải xây dựng chương trình đào tạo mà thời lượng dành cho thực hành là tương đối lớn, sinh viên phải được rèn luyện tay nghề, rèn luyện các kỹ năng có thể giải quyết các tình huống có vấn đề xuất hiện trong hoạt động nghề nghiệp sau này. Đối với sinh viên các khối kỹ thuật nói chung và sinh viên chuyên ngành điện công nghiệp nói riêng, vấn đề phát triển năng lực PH&GQVĐ thực tiễn trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết và cần phải có sự đầu tư nghiên cứu một cách khoa học, thiết thực, cụ thể và khả thi về vấn đề này. Đây chính là


một trong những lý do khiến tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu của mình là “Dạy học môn Mạng cung cấp điện trình độ cao đẳng theo định hướng phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề thực tiễn”.

1.2. Một số khái niệm công cụ liên quan

1.2.1. Khái niệm về năng lực

1.2.1.1. Khái niệm

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 240 trang tài liệu này.

Hiện tại thường có 2 cách định nghĩa NL: Một cách định nghĩa NL sử dụng thuật ngữ “Các đặc điểm tâm sinh lý”, cách khác dùng thuật ngữ “khả năng”, chưa có thuật ngữ nào được mọi người thừa nhận là duy nhất đúng. Vì vậy 2 cách đang sử dụng trên đều được dùng như nhau.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “NL là đặc điểm của cá nhân thể hiện mức độ thông thạo, tức là có thể thực hiện được một cách thành thục và chắc chắn một hay một số dạng hoạt động nào đó. NL gắn liền với những phẩm chất về trí nhớ, tính nhạy cảm, trí tuệ, tính cách của cá nhân. NL có thể phát triển trên cơ sở năng khiếu (đặc điểm sinh lý của con người), song không phải là bẩm sinh, mà là kết quả của phát triển xã hội và của con người” [88, tr41].

Dạy học môn Mạng cung cấp điện trình độ cao đẳng theo định hướng phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề thực tiễn - 4

Trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể năm 2018 của Bộ GD&ĐT nêu định nghĩa: “NL là thuộc tính cá nhân được hình thành và phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện cho phép con người huy động tổng thể các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí…thực hiện thành công loại hành động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể ” [4].

Các ngành dịch vụ khu vực ASEAN hiện nay đã và đang xây dựng TCNL chung (ASEAN Common Comoetency Standards ACCS) với định nghĩa năng lực cho từng lĩnh vực bao gồm 3 loại năng lực theo phân công lao động: Năng lực cốt lòi, năng lực chung và năng lực chức năng/chuyên môn. Biểu hiện của các loại năng lực này đều thông qua kiến thức, kỹ năng và thái độ/hành vi [83; tr18].


Tác giả Đặng Thành Hưng cho rằng, về mặt thực hiện, kỹ năng phản ánh năng lực làm, tri thức phản ánh năng lực nghĩ và thái độ phản ánh năng lực cảm nhận. Năng lực là “tổ hợp những hành động vật chất và tinh thần tương ứng với dạng hoạt động nhất định dựa vào những thuộc tính cá nhân (sinh học, tâm lý và giá trị xã hội) được thực hiện tự giác và dẫn đến kết quả phù hợp với trình độ thực tế của hoạt động” [28, tr25]. Trong định nghĩa này, tác giả đã đưa ra các yếu tố quan trọng làm rò những thuộc tính cá nhân – đó là sinh học, tâm lý và giá trị xã hội.

Theo tác giả, năng lực là khả năng của mỗi con người, thể hiện ở các hành động thể chất (chân tay) và hành động trí tuệ dựa trên sự huy động các kiến thức, kỹ năng, thái độ, các giá trị có liên quan nhằm đảm bảo thực hiện thành công hoạt động nào đó, theo một chuẩn quy định.

NL của con người không phải là yếu tố bất biến trong suốt cuộc đời. Trong quá trình phát triển, các NL trí tuệ của con người thay đổi không chỉ về cường độ (số lượng), mà còn thay đổi cả về chất. Vấn đề này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong dạy học, khi xác định hình thành, bồi dưỡng NL nào, ở mức độ nào là cơ bản, phù hợp, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện NL cá nhân sau này.

1.2.1.2. Cấu trúc của năng lực.

Phần lớn các công trình nghiện cứu về NL (5, 6, 13, 14, 15, 21, 23, 40, 67, 68…) đều coi NL là tổ hợp các kiến thức, kỹ năng, thái độ, niềm tin, ý chí… Coi đó là nguồn động lực tạo nên NL.

Tác giả Hoàng Hòa Bình [6] đã đưa ra khái niệm cấu trúc bề mặt và cấu trúc bề sâu của NL. Cấu trúc này được mô tả ở (Hình 1.1) như sau:



Kiến thức


Thái độ

Cấu trúc bề mặt (Đầu vào)


Kỹ năng



NL hiểu


NL ứng xử


NL làm

Cấu trúc bề sâu (Đầu ra)


Hình 1.1. Cấu trúc của năng lực

Hình 1.1. Cấu trúc của năng lực

Nhìn vào cấu trúc trên, nếu trong DH chỉ chú trọng cung cấp kiến thức, giáo dục, thái độ thì chưa đào tạo được NL. Ngược lại nếu chỉ chăm chú rèn kỹ năng mà kiến thức chỉ đạt mức độ tái hiện, không biết áp dụng vào thực tiễn thì cũng không thể “làm được”, tức là cũng không có được NL. Khi đó hành động sẽ bế tắc, vì hành động muốn thông thạo, sáng tạo thì phải nhờ tư duy sắc bén dựa trên các kiến thức vững vàng. Kỹ năng là thành phần cốt lòi của NL, có vai trò quyết định đến phát triển NL. Nhưng nếu không kết hợp với kiến thức sâu, vững vàng thì kỹ năng cũng chỉ hành động theo mẫu, không sáng tạo được. Vì vậy, đào tạo theo NL thì phải phát triển kiến thức, kỹ năng, hai yếu tố này phải đi song hành; đồng thời kết hợp giáo dục thái độ đúng đắn, niềm tin, ý chí và các phẩm chất khác, đặc biệt là NL tư duy và tự học.

Luận án này cũng thống nhất quan điểm về cấu trúc của NL là tổ hợp các


kiến thức, kỹ năng và các phẩm chất cá nhân khác. Muốn phát triển NL thì phải tác động vào các NL thành phần tạo nên NL lực này.

1.2.2. Khái niệm về vấn đề thực tiễn

1.2.2.1. Khái niệm về vấn đề.

Trong các lĩnh vực hoạt động của con người, khái niệm vấn đề được nhìn nhận dưới các gốc độ khác nhau:

- Theo quan điểm tư duy: Vấn đề là trở ngại trong tư duy và hành động mà cá nhân phải khắc phục khi nó chưa được giải quyết nhưng điều kiện để giải quyết nó đã có hoặc có thể tìm được.

- Theo quan điểm tổng quát: Mỗi cá nhân, tập thể luôn luôn có vấn đề cần giải quyết, vấn đề tồn tại hàng ngày từ rất đơn giản đến phức tạp.

Xét các ví dụ sau:

+ Một HS học ngành Điện công nghiệp, đạt điểm trung bình học kỳ I là 7,0. Em hứa với mẹ là học kỳ sau sẽ cố gắng đạt điểm trung bình là 8,0. Nhưng học thế nào để vượt qua khoảng cách 0,5 điểm? Đây là vấn đề em cần giải quyết, chỉ chăm học thôi thì chưa đủ, phải có sự giúp đỡ của cha mẹ, thầy cô.

+ Một xí nghiệp sản xuất dây điện, hàng tháng sản phẩm lỗi đều là 2%, gây lãng phí lớn. Làm thế nào để giảm sản phẩm lỗi chỉ còn 1,5%/1 tháng. Đây là câu hỏi cũng là vấn đề của xí nghiệp. Để giải quyết, cần nghiên cứu kỹ, phân tích kỹ vấn đề: Lỗi có thể của sản phẩm là gì? Ở khâu nào? Người hay máy móc gây ra lỗi? Nghiên cứu lại toàn bộ dây chuyền sản xuất, từ đầu vào đến đầu ra, quan sát kỹ, đo đạc, thực nghiệm để tìm ra nguyên nhân gây ra lỗi và để giải pháp khắc phục.

Hai ví dụ trên đều có một điểm chung: Giữa hiện tại và mong muốn ở tương lai có một khó khăn, một khoảng cách. Đó là vấn đề - vấn đề đặt ra là phải vượt qua một khó khăn (khó khăn có thể giải quyết được hoặc không), phải vượt qua một khoảng (khoảng cách này có thể vượt qua được) để đạt được mong muốn (mục đích) ở tương lai.


Theo I.Ia. Lecne: “Vấn đề là một câu hỏi nảy ra hay được đặt ra cho chủ thể, mà chủ thể chưa biết lời giải từ trước và phải tìm tòi sáng tạo lời giải, nhưng chủ thể đã có sẵn một số phương tiện ban đầu để sử dụng thích hợp vào việc tìm tòi nó” [30, tr27].

Theo tác giả Nguyễn Vũ Phương Nam [50], một cách khái quát, vấn đề là khoảng cách giữa thực tế hiện tại và mong muốn trong tương lai vấn đề đó cần được giải quyết hay loại bỏ để chúng ta đạt được mục tiêu của mình. Định nghĩa như thế này rất dễ hiểu và phù hợp với các vấn đề của cuộc sống và các vấn đề nảy sinh trong hoạt động nghề nghiệp. Tác giả đã dẫn ra nhiều ví dụ, cả giả định và thực tế rất thuyết phục minh họa cho định nghĩa trên. Định nghĩa như vậy cũng có thể vận dụng trong dạy học trong nhiều trường hợp, hoàn cảnh cụ thể.

Tham khảo các quan điểm của Lecne, Nguyễn Vũ Phương Nam và các tác giả khác, tác giả xây dựng khái niệm vấn đề dùng trong Luận án này như sau:

Vấn đề là một câu hỏi/nhiệm vụ có chứa đựng khó khăn/mâu thuẫn hoặc một khoảng cách nào đó giữa thực tế hiện tại và mong muốn ở tương lai, cần phải vượt qua và nhất định sẽ vượt qua được để giải quyết vấn đề đó, mặc dù con đường cần phải vượt qua đó chưa biết trước, cần phải tìm kiếm.

1.2.2.2. Khái niệm về vấn đề thực tiễn

Khái niệm vấn đề thực tiễn trong Luận án này được hiểu trước hết đó là một vấn đề như cách hiểu trình bày ở mục trên. Vấn đề như thế cũng diễn ra hàng ngày trong hoạt động nghề nghiệp. Các vấn đề này có thể đơn giản, rất đơn giản, có thể phức tạp hoặc rất phức tạp; Các vấn đề có thể cần giải quyết gấp thậm chí rất gấp; Có vấn đề chưa cần giải quyết ngay, có vấn đề định hướng lâu dài cần lập dự án nghiên cứu giải quyết. Tất cả các vấn đề như vậy đều là vấn đề của công ty, xí nghiệp, cũng là vấn đề của mỗi thành viên của các cơ quan. Đó cũng là các vấn đề thực tiễn được dùng trong Luận án này.


Tất cả các vấn đề thực tiễn này, một khi được giải quyết thành công sẽ làm tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho toàn cơ quan, làm giảm sức lao động cho mọi người, làm cho tất cả các mặt hoạt động của cơ quan vì thế mà tốt hơn. Hiểu vấn đề thực tiễn như vậy sẽ giúp cho các giáo viên dạy nghề, các trường, lớp dạy nghề được định hướng rò ràng những nội dung thực tiễn nghề nghiệp đưa vào các bài giảng, các khâu đào tạo của nhà trường.

1.2.3. Khái niệm về năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề thực tiễn

1.2.3.1. Khái niệm về phát hiện và giải quyết vấn đề

Đa số các tác giả NC về NL GQVĐ đều mô tả khái niệm GQVĐ là một quá trình gồm nhiều công việc theo thứ tự, tức là mô tả các bước tiến hành GQVĐ với các quan điểm khác nhau.

Theo Ken Watanabe [39, tr29] có 4 bước GQVĐ gồm: Hiểu tình hình, xác định nguyên nhân chính, lập kế hoạch hành động, triển khai điều chính cho đến khi vấn đề được giải quyết. Theo PP LAMAP (còn gọi là PP bàn tay nặn bột), GQVĐ là quá trình bao gồm 6 bước: Vấn đề; dự đoán – giả thuyết; nghiên cứu – GQVĐ; kết quả; giải thích; hợp thức hóa kiến thức. Còn tác giả Nguyễn Vũ Phương Nam thì mô tả GQVĐ theo 4 bước [50, tr66]: Giải thích, quyết định, vấn đáp, đề xuất.

PH&GQVĐ là một quá trình nhận thức bao gồm nhiều công đoạn kế tiếp nhau như: Phân tích, làm rò bản chất của tình huống chứa vấn đề cần giải quyết; Làm rò các thông tin đã có trong tình huống và các thông tin tìm thêm để xác định chính xác câu hỏi/nhiệm vụ cần nghiên cứu để giải quyết (tức là vấn đề cần giải quyết). Công đoạn tiếp theo là xác định phương hướng GQVĐ trên nhưng chưa có sẵn qui trình giải quyết. Tuy nhiên, việc phân tích thông tin đã có và tìm kiếm các thông tin bổ sung cho tình huống chứa vấn đề ở trên đã gợi mở các phương hướng GQVĐ và mang lại niềm tin để GQVĐ.


1.2.3.2. Khái niệm về năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề thực tiễn

Trong đào tạo nghề, khái niệm “vấn đề thực tiễn” dùng để chỉ những vấn đề, những tình huống, nhiệm vụ lấy từ hoạt động thực tiễn nghề nghiệp và cuộc sống được lựa chọn do công sư phạm để đưa vào giảng dạy giúp cho SV vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã học để giải quyết, với mục đích giúp họ làm quen với thực tiễn nghề nghiệp cần đào tạo ngay trong lúc họ đang học ở trường.

Năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn là một năng lực không chỉ giới hạn ở một số ít người may mắn. Đó là một kỹ năng và một thói quen mà chúng ta hoàn toàn có thể học được. Nếu biết phát triển đúng những kỹ năng và có thái độ đúng đắn thì bất cứ ai cũng có thể trở thành người biết cách giải quyết vấn đề.

Năng lực phát hiện vấn đề trong hoạt động thực tiễn nghề nghiệp, đó là khả năng của sinh viên dựa trên kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và phương pháp tư duy của mình để có thể phát hiện được nguyên nhân của các sự cố kỹ thuật hoặc có thể “nhìn thấy” được các khiếm khuyết (điều chưa hoàn thiện, chưa hợp lý) của các sự vật hiện tượng trong quá trình hoạt động nghề nghiệp làm hạn chế chất lượng của quá trình này. Sự phát hiện được các vấn đề này là tiền đề để cải biến quá trình hoạt động nghề nghiệp làm cho chất lượng của nó được tốt hơn (tốt hơn về mặt chất lượng sản xuất hoặc giảm nhẹ sức lực của người lao động, tốt hơn về mặt kinh tế giá thành sản phẩm), kể cả khi quá trình này đang hoạt động bình thường. Người càng có kiến thức, kỹ năng vững chắc và kinh nghiệm phong phú thì khả năng phát hiện vấn đề càng tốt.

Về phương tiện xử lí các sự cố hỏng hóc của các thiết bị, máy móc kỹ thuật thì khái niệm phát hiện vấn đề cũng có nghĩa như khái niệm “chuẩn đoán kỹ thuật”. Phát hiện vấn đề thực tiễn có nhiều mức độ khác nhau tùy thuộc vào trình độ kiến thức, kỹ năng của con người, từ mức độ đơn giản (của những người trực tiếp làm ra sản phẩm) đến mức độ thiên tài (của các nhà

Xem tất cả 240 trang.

Ngày đăng: 21/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí