Giải Pháp Phối Hợp Giữa Các Bộ, Ngành Với Các Địa Phương Trong Vùng Kinh T Ế Trọng Điểm Bắc Bộ


Ba là, những chính sách khuyến khích đầu tư nói trên cần được vận dụng linh hoạt để hướng các nhà ĐTNN vào cá c ngành kinh tế trọng điểm của vùng như:

- Các dự án phát triển công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm, công nghệ phần cứng, tin học, điện tử, cơ khí chính xác, tự động hoá và đổi mới công nghệ cũ, lạc hậu của các doanh nghiệp đang hoạt động trong các khu công nghiệp và đô thị ở Hà Nội, Hải Phòng, các thành phố trực thuộc tỉnh như: Hải Dương, Phúc Yên, Bắc Ninh, Phố Nối; các dự án đóng và sửa chữa tàu thuỷ ở các khu vực ven sông Bạch Đằng, Văn Úc và ven biển thuộc tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng. Các dự án thu hút nhiều lao động với công nghệ trung bình tiên tiến, nên ưu tiên cho các nhà đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư xây dựng tại các vùng ngoại ô các thành phố, các khu tập trung dân cư, các thị xã, thị trấn. Đẩy mạnh khuyến khích đầu tư phát triển côn g nghiệp là tạo động lực phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP, thu hút nhiều lao động, tăng thu ngân sách nhà nước...

- Đặc biệt ưu đãi đối với các dự án phát triển giáo dục, đào tạo; các viện nghiên

cứu khoa học; các bệnh viện, các công trình văn hoá, thể thao và các công trình công cộng khác phục vụ cho nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần cho dân cư trong vùng. Khuyến khích đầu tư vào các ngành dịch vụ, có vòng quay vốn nhanh, tạo ra nhiều lợi nhuận, thu hút nhiều lao động có trình độ chuyên môn thấp, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp.

- Khuyến khích ĐTNN vào công nghệ chế biến rác thải, khí thải, nước thải và cấp thoát nước ở các thành phố lớn, nhất là Hà Nội, Hải Phòng. Khuyến khích, thậm chí hỗ trợ kinh phí từ ngân sách Trung ương, địa phương và đóng góp của dân cư để các tổ chức, cá nhân đầu tư thu gom rác thải sinh hoạt ở các đô thị, các khu dân cư, khu công nghiệp, thị trấn, thị tứ, làng, xã để tập trung làm nguyên liệu cho các xí nghiệp chế biến rác thải, số còn lại chôn lấp ở những bãi theo quy hoạch với công nghệ tiên tiến đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường sinh thái.

- Khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư bằng các hình thức thích hợp vào các dự án phát triển giao thông vận tải, lưới điện, thông tin liên lạc, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu đi lại của dân cư.

Bốn là, tăng cường đổi mới công tác xúc tiến đầu tư

Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và nước ta đã trở thành thành viên tổ chức thương mại thế giới (WTO), khi đó các nguồn lực phát triển, nhất l à nguồn vốn được tự do di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác, thì việc thu hút FDI đã và đang thực sự là cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, giữa các vùng, miền, địa phương trong nước. Do đó, công tác xúc tiến đầu tư đã trở thành vấn đề cấp bách, nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược thu hút FDI của mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Vì vậy, hoạt động xúc tiến đầu tư phải được tổ


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.

chức chặt chẽ, có hệ thống và có sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương, giữa địa phương với các ngành và sự giúp đỡ của các tổ chức, các nhà tài trợ nước ngoài. Song địa phương có nhu cầu thu hút FDI phải chủ động hợp tác với các cơ quan Trung ương, nhất là các cơ quan truyền thông và ngoại giao để tạo hình ảnh riêng của địa phương mình với các nhà ĐTNN.

Để làm tốt công tác xúc tiến đầu tư, vùng KTTĐ Bắc Bộ cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau:

Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - 19

- Xác định đối tượng cần vận động xúc tiến đầu tư : Căn cứ vào tiềm năng nguồn lực, mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội bền vững của vù ng KTTĐ Bắc Bộ và các dự án thu hút FDI để lựa chọn các đối tác đầu tư một cách khoa học, chính xác, đúng năng lực, sở trường của nhà đầu tư. Nếu như, lựa chọn đối tác không đúng với thực lực vtài chính, chuyên môn, kỹ thuật, công nghệ và địa vị pháp lý của họ thì sẽ dẫn đến tình trạng bán, chuyển nhượng dự án hoặc xây dựng dở dang, tiến độ dự án kéo dài gây lãng phí tiền của và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của vùng. Đồng thời phải tìm hiểu mối quan hệ của đối tác với các khách hàng trên thị trường t hế giới và khu vực; khả năng cung ứng vật tư, thiết bị, nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Từ đó đưa ra phương thức tiếp cận phù hợp để tạo mối quan hệ hợp tác lâu dài với đối tác.

- Đa dạng hoá các hình thức xúc tiến đầu tư: Sau khi đã xác định được các đối tác đầu tư thì phải sử dụng các kênh, loại hình, hình thức truyền thông và tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học, ở cả trong nước và nước ngoài để tuyên truyền, quảng bá chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, tiềm năng nguồn lực của vùng, đặc điểm các dự án kêu gọi FDI. Cung cấp danh sách các dự án kêu gọi FDI của địa phương giai đoạn 2010 - 2020 và tầm nhìn 2030. Các dự án phải cung cấp đầy đủ, chi tiết các thông tin mà các nhà đầu tư cần biết như: dự án thuộc ngành, lĩnh vực nào, địa điểm ở đâu, kết cấu hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội ra sao, mục tiêu của dự án, công nghệ kỹ thuật mà dự án sử dụng, chất lượng lao động và chương trình, quy trình đào tạ đội ngũ cán bộ, công nhân có chuyên môn, kỹ thuật cao, hệ thống cấp, thoát nước, xử lý chất thải bảo vệ môi trường sinh thái; các dịch vụ tư vấn pháp lý; hệ thống luật pháp và các chính sách ưu đãi đầu tư trực tiếp nước ngoài... công tác xúc tiến đầu tư phải được tiến hành thường xuyên đến tận các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới và có thể tổ chức vận động, xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm, nơi có nhiều nhà đầu tư tiềm năng, có khả năng lan toả ra các nước khác như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc, EU, ASEAN, Nga, Na Uy, Hoa Kỳ,... Tạo điều kiện thuận lợi và lòng tin đối với các nhà đầu tư của thế giới, khu vực đến với Việt Nam nói chung và vùng KTTĐ Bắc Bộ nói riêng.


- Thiết lập hệ thống thông tin cần thiết đáp ứng những đòi hỏi của các nhà ĐTNN: Hoạt động xúc tiến đầu tư bắt đầu từ những ý tưởng của các ngành, địa phương đối với các dự án trong từng giai đoạn, từng năm trong đó có FDI. Từ những ý tưởng đó, cần phải thiết lập phương án về mục tiêu, vốn đầu tư, phương thức đầu tư, các điều kiện đảm bảo về giao thông, viễn thông, năng lượng, cấp thoát nước, nguồn nhân lực tại chỗ và nguồn nhân lực có thể đào tạo, các ưu đãi về thuế, tiền thuê đất, xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nội địa; các tổ chức dịch vụ tư vấn về pháp lý, lập dự án, xử lý quan hệ với cơ quan nhà nước, các địa chỉ cần liên hệ để có thông tin về dự án. Đó là những thông tin cần thiết để nhà ĐTNN cân nhắc việc lựa chọn dự án và địa điểm. Khi đã chọn được địa điểm dự án, có thể nhà ĐTNN sẽ kiến nghị điều chỉnh một số nội dung của ý tưởng ban đầu, nếu thấy thích hợp thì cơ quan nhà nước chấp thuận. Có n hư vậy thì FDI mới trở thành một bộ phận cấu thành của nền kinh tế và khắc phục được hiện tượng phổ biến đang tồn tại hiện nay là cán bộ quản lý địa phương thụ động, dễ dàng chấp nhận dự án FDI mà không quan tâm đến chất lượng và hiệu quả của dự án.

- Thành lập bộ phận chuyên trách thực hiện công tác xúc tiến đầu tư của vùng: gồm các cán bộ của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong vùng, nắm vững tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ, ngoại ngữ và có kinh nghiệm trong tuyên truyền vận động, có khả năng giao tiếp; hiểu biết luật pháp, chính sách nước ta, thông lệ quốc tế; am hiểu quy trình, trình tự, thủ tục đầu tư và có khả năng tháo gỡ vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư. Đồng thời phải cung cấp cho tổ chức xúc tiến đầu tư có đầy đủ kinh phí, trang thiết bị kỹ thuật, cơ sở vật chất bảo đảm hoạt động ở trong nước và ở nước ngoài khi cần thiết. Nguồn kinh phí được huy động từ Trung ương, địa phương, sự h ỗ trợ của các tổ chức quốc tế,...

- Nghiên cứu, trao đổi, học tập kinh nghiệm của các nước, vùng lãnh thổ và các

địa phương khác trong cả nước về xúc tiến đầu tư. Tăng cường hợp tác với các bộ, ban, ngành, đặc biệt với các đại sứ quán của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các nước, vùng lãnh thổ trên thế giới và khu vực mà trực tiếp giúp sức là các tham tán thương mại, các lãnh sự quán ở các đô thị lớn trên thế giới.

4.2.2.3. Giải pháp phối hợp giữa các bộ, ngành với các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

Vùng KTTĐ thực chất là vùng kinh tế tổng hợp với không gian phát triển kinh tế

- xã hội rộng lớn, bao gồm nhiều ngành chuyên môn hoá làm động lực, kết hợp với các ngành, lĩnh vực kinh tế khác trong và ngoài vùng, trong nước và quốc tế để khai thác có hiệu quả tiềm năng nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội của vùng.


Vùng kinh tế hay vùng KTTĐ đều không có bộ máy quản lý Nhà nước cấp vùng. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong vùng đều bình đẳng, cùng cấp và cùng là đơn vị hành chính cấp tỉnh, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ. Các quan hệ về kinh tế, chính trị xã hội và môi trường giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong vùng đều là quan hệ phối hợp, hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Song mối quan hệ phối hợp có vai trò chủ đạo, đặc trưng cho sự gắn kết giữa các địa phương trong vùng với nhau. Nói cách khác, phối hợp là để tăng cường sức mạnh và duy trì sự tồn tại của vùng. Nhưng làm thế nào để thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp giữa các bộ, ngành với các địa phương v à giữa các địa phương với địa phương trong vùng thì cần có các giải pháp đồng bộ sau:

Một là, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, mà trực tiếp là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, trước hết, phải chủ động phối hợp với các bộ, ngành có liên quan và các địa phương trong vùng, tập trung kinh phí đầu tư cho nghiên cứu, khảo sát để lập quy hoạch không gian phát triển kinh tế - xã hội của vùng một cách khách quan, khoa học, phù hợp với điều kiện, tiềm năng nguồn lực và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030 và dự báo đến 2050. Đồng thời các địa phương hay vùng phải nghiêm túc thực hiện quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phphê duyệt và coi đây là căn cứ pháp lý quan trọng nhất để phối hợp giữa các địa phương t rong vùng.

Hai là, các vấn đề vướng mắc trong thực hiện quy hoạch hoặc vấn đề mới phát

sinh do tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế có biến động cần phải bổ sung, thay đổi quy hoạch để thích ứng với điều kiện mới. Những vấn đề phát sinh thì các địa phương chủ động đề xuất vơi ban chỉ đạo điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm. Căn cứ vào tính chất công việc mà ban chỉ đạo mời các Bộ, ngành liên quan cùng với các địa phương trong vùng cùng nhau bàn bạc, đề xuất hướng giải quyết. Các vấn đề đưa ra bàn bạc phải thực hiện nghiêm túc 5 nguyên tắc phối hợp phát triển trong các vùng KTTĐ được ghi trong quy chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương đối với các vùng KTTĐ số 159/2007/QĐ-TTg ngày 10/10/2007 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó, đồng thuận là nguyên tắc cơ bản, tất cả các vấn đề được đưa ra bàn bạc đã đồng thuận, thống nhất hoặc chưa đồng thuận phải lập tờ trình báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.

Ba là, trên cơ sở quy hoạch không gian phát triển kinh tế - xã hội và các loại quy hoạch khác của vùng KTTĐ Bắc Bộ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong vùng lập quy hoạch không gian phát triển kinh tế - xã hội và các loại quy hoạch khác của địa phương mình. Các quy hoạch đó phải đồng bộ, thống nhất giữa các địa phương


với quy hoạch của vùng KTTĐ Bắc Bộ, tránh chồng chéo, lãng phí. Trong đó, cần tập trung phối hợp giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội; giữa sản xuất với khai thác tài nguyên thiên nhiên, lao động việc làm và các ngu ồn lực khác; giữa phát triển kinh tế với mở rộng thị trường; giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và giữa phát triển kinh tế - xã hội với môi trường sinh thái. Đồng thời phải phối hợp thực hiện quy hoạch và thực hiện tiến độ đầu tư của các dự án.

Tất cả các vấn đề cần được phối hợp giải quyết nêu trên chỉ có thể đồng thuận khi giải quyết hài hoà, hợp lý mối quan hệ lợi ích quốc gia; vùng KTTĐ Bắc Bộ; các địa phương trong vùng; các nhà đầu tư và người lao động. Mối quan hệ lợi ích, mà không được giải quyết hài hoà, hợp lý thì sẽ dẫn đến tình trạng chỗ này, việc nọ ai cũng đòi làm, còn việc khác thì chẳng ai nhòm ngó tới trong thực tế, ngay cả các vấn đề có tính pháp lý bị chi phối bởi hệ thống pháp luật khá chặt chẽ, nhưng người thực hiện vẫn tìm các h vận dụng cho lợi ích thuộc về nhóm mình, địa phương mình. Nên để có đồng thuận trong sự phối hợp thì nhất thiết và trước tiên phải giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa các bên tham gia.

Bốn là, kiện toàn ban chỉ đạo điều phối phát triển vùng KTTĐ theo hướng gọn

nhẹ, chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm rõ ràng và đội ngũ cán bộ trong Ban phải là các chuyên gia giỏi của các ngành, am hiểu tình hình thực tế của các địa phương trong vùng mình phụ trách. Nếu không hoạt động của Ban chỉ đạo điều phối phát triển vùng KTTĐ sẽ chỉ là hình thức, mang tính chất mặt trận, ít tác dụng thiết thực.

4.2.2.4. Giải pháp tăng cường quản lý các doanh nghiệp FDI đang hoạt động

ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

Thu hút FDI là cần thiết và quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của vùng KTTĐ Bắc Bộ, song cần phải quản lý tốt hoạt động của các doanh nghiệp FDI nhằm tuân thủ theo đúng các qui định của pháp luật Việt Nam và các cam kết của các nhà ĐTNN ghi trong giấy phép kinh doanh. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, cần có các giải pháp cụ thể sau:

Một là, tăng cường thông tin bằng nhiều kênh khác nhau để các nhà ĐTNN có

điều kiện tiếp cận, cập nhật những chủ trương, chính sách hiện hành của nước ta hay những thay đổi về cơ chế quản lý... giúp họ hiểu và tự giác chấp hành.

Hai là, tổ chức cơ quan quản lý liên ngành thay vì Ban quản lý dự án ĐTNN như hiện nay. Cơ quan này trực thuộc Sở Công thương, có trách nhiệm quản lý, giám sát hoạt động kinh tế, giám sát việc chấp hành các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn FDI, đặc biệt chú ý tới các vấn đề về xã hội và môi trường. Cơ quan này có thẩm quyền xử lý các sai phạm của doanh nghiệp FDI theo đúng các qui định của pháp luật Việt Nam.


Ba là, rà soát các chính sách, qui định hiện hành, cơ chế quản lý các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trong vùng và phát hiện những sai trái, không phù hợp hay trùng lặp, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền loại bỏ; đề xuất các chính sách, qui định còn thiếu để tạo ra một hệ thống chính sách đồng bộ, phù hợp với sự vận động phát triển của các doanh nghiệp trong vùng, với cơ chế quản lý chung của cả nước và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Bốn là, khuyến khích và có chính sách hỗ trợ hợp lý cho các doanh nghiệp FDI, tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị, xã hội hoạt động trong các doanh nghiệp, nhằm tập hợp động viên công nhân viên chức thực hiện tốt các cam kết trong HĐLĐ; xây dựng mối quan hệ đồng thuận, hợp tác gắn bó lâu dài giữa người lao động với chủ doanh nghiệp. Mặt khác, thay mặt công nhân viên chức bàn bạc với chủ doanh nghiệp nhằm tháo gỡ những vướng mắc về lợi ích giữa người lao động với chủ doanh nghiệp; hạn chế bãi công, đình công gây thiệt hại cho cả doanh nghiệp và người lao động.

4.2.2.5. Giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng kinh tế t rọng điểm Bắc Bộ đáp ứng yêu cầu FDI theo hướng phát triển bền vững [2]

Chất lượng nguồn nhân lực có vai trò quyết định tới thành công của ứng dụng công nghệ mới, kỹ thuật hiện đại và nâng cao năng suất lao động. Để có nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứ ng yêu cầu của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; phát triển kinh tế - xã hội bền vững, thì cần giải quyết các vấn đề sau:

Một là, xây dựng quy hoạch phát triển nguồn nhân lực theo hướng tăng cường sự liên kết của các tỉnh trong vùng KTTĐ Bắc Bộ gắn với yêu cầu, mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của vùng.

Cũng như các vùng KTTĐ khác trong cả nước, vùng KTTĐ Bắc Bộ cho đến thời điểm hiện nay chưa xây dựng được quy hoạch phát triển nguồn nhân lực cho toàn vùng. Mỗi tỉnh trong vùng tự xây dựng quy hoạch riêng cho tỉnh mình, nhưng hoàn toàn chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa các tỉnh trong vùng. Do đó, việc đưa ra một quy hoạch phát triển nguồn nhân lực chung cho cả vùng KTTĐ Bắc Bộ là một việc làm cần thiết và đòi hỏi có sự bàn bạc, thảo luận chung. Việc xây dựng quy hoạch phát triển nguồn nhân lực cho cả vùng sẽ góp phần làm tăng tính liên kết giữa các tỉnh, thành phố trong vùng, tạo nên sự thống nhất cao không chỉ trong phát triển nguồn nhân lực mà còn tác động đến nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội khác trong vùng.

Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực vùng cần phải gắn với các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của vùng, đồng thời tạo điều kiện để vùng có thể tạo nên những đột phá mới trong tăng trưởng.


Để thực hiện quy hoạch phát triển nguồn nhân lực vùng, cần có quy hoạch hệ thống các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho vùng, nhất là hệ thống cơ sở đào tạo nghề, hệ thống cơ sở đào tạo lao động kỹ thuật chất lượng cao, lao động quản lý. Các địa phương trong vùng cần nhìn nhận lại việc thành lập các trường đại học tràn lan như hiện nay. Cần quy hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo hệ cao đẳng, đại học cho phù hợp nhu cầu thực tế của vùng, tiến tới hiện đại hóa, đưa một số trường đại học trọng điểm lên đạt chuẩn trong khu vực.

Hai là, xây dựng khung chính sách phát triển nguồn nhân lực ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

Vùng KTTĐ Bắc Bộ có nhiều đặc thù riêng, trong đó, có rất nhiều lợi thế, tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và thu hút FDI nói riêng. Với vai trò là đầu tàu kinh tế trong tăng trưởng, tạo tác động lan tỏa, dẫn dắt các vùng khác cùng phát triển, vùng KTTĐ Bắc Bộ rất cần phải xây dựng khung chính sách gắn với đặc thù của vùng KTTĐ Bắc Bộ, tạo cho vùng có tính chủ động cao trong phát triển ở tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực phát triển nguồn lực con người.

- Các chính sách phát triển nguồn nhân lực vùng KTTĐ Bắc Bộ cần được xây dựng theo hướng khai thác và phát huy được những lợi thế riêng có của vùng như tập trung và tạo thuận lợi cho việc hình thành và phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao, nhất là đội ngũ nhân lực quản lý hành chính nhà nước, đội ngũ các nhà khoa học và công nghệ (đặc biệt là nhóm chuyên gia đầu ngành), đội ngũ doanh nhân, chuyên gia quản trị doanh nghiệp chuyên nghiệp.

- Các chính sách phát triển nguồn nhân lực cần được xây dựng đồng bộ, tạo điều

kiện và môi trường hình thành đội ngũ nhân lực có thể chất tốt, phát triển toàn diện về trí tuệ, ý chí, năng lực, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, tác phong làm việc, tinh thần kỷ luật cao. Đây chính là cách thức để vùng có thể phát triền và thu hút FDI vào các ngành mũi nhọn có hàm lượng chất xám cao, là cách thức để vùng có thể trở thành một vùng kinh tế năng động, có sự phát triển nổi trội về kinh tế và tạo sức lan tỏa mạnh mẽ tới các vùng khác trong cả nước.

- Các chính sách phát triển nguồn nhân lực nói chung và các chính sách phát triển nguồn nhân lực vùng KTTĐ Bắc Bộ nói riêng cần được xây dựng phù hợp với bối cảnh phát triển hiện nay, đặc biệt phải gắn với yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu PTBV của vùng.

Ba là, tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo ở tất cả các cấp, các bậc học đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về số lượng và chất ợng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của các nhà ĐTNN


Đối với vùng KTTĐ Bắc Bộ, để phát triển nguồn nhân lực, đưa nguồn nhân lực của vùng đi trước một bước, đón đầu và đáp ứng yêu cầu PTBV cần cải thiện và hoàn chỉnh các chính sách đầu tư cho giáo dục - đào tạo theo hướng tạo ra nhiều hỗ trợ và thuận lợi cho hoạt động này. Trong điều kiện hiện nay của vùng KTTĐ Bắc Bộ, chính sách đầu tư cho giáo dục đào tạo nên hoàn thiện theo hướng:

- Tăng cường đầu tư cho giáo dục dạy nghề

Để thực hiện đào tạo nghề và thu hút được người học, cần coi trọng và đổi mới công tác hướng nghiệp. Định hướng nghề nghiệp đún g đắn, cung cấp đầy đủ thông tin về các ngành nghề, thông tin về nhu cầu của vùng đối với các ngành nghề đó cho học sinh sẽ giúp cho học sinh và các bậc phụ huynh có cái nhìn đúng đắn về việc học nghề, để họ thấy rằng con cái họ có rất nhiều lựa chọn cho nghề nghiệp của mình, mà không nhất thiết phải vào đại học. Chính sách đầu tư cho đào tạo nghề trong vùng cần tập trung ở một số khía cạnh như:

+ Thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào tạo nghề và phương thức đào tạo. Bên cạnh các trường công lập do Nhà nước đầu tư, cần tạo chính sách thuận lợi để khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng đầu tư kinh phí để xây dựng, phát triển hệ thống đào tạo trong doanh nghiệp, thông qua đ ó góp phần đào tạo trực tiếp nguồn nhân lực cho doanh nghiệp.

+ Thực hiện chuẩn hóa trong đào tạo nghề, từ nội dung, chương trình học, phương pháp đào tạo đến đội ngũ giáo viên. Đồng thời, đầu tư, hiện đại hóa hệ thống máy móc, mô hình phục vụ cho giảng dạy và học tập nghề.

+ Thực hiện cổ phần hóa các cơ sở dạy nghề công lập nhằm giảm bớt khó khăn cho Nhà nước, đồng thời tăng tính hiệu quả, năng động của các cơ sở đào tạo.

+ Nhà nước cần tiếp tục có chính sách hỗ trợ cho con em người nghèo, đồng bào dân tộc có điều kiện học tập không chỉ ở bậc trung học , mà cả bậc đại học; hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nhất là con em nông dân bị nhà nước thu hồi đất nông nghiệp phục vụ phát triển công nghiệp, mở rộng đô thị và xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.

- Tiếp tục thực hiện chính sách đầu tư cho giáo dục cao đẳng và đại học

Vùng KTTĐ Bắc Bộ trong thời gian tới rất cần nhân lực có trình độ cao, trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học để giúp cho vùng có những bước đi lớn trong phát triển. Đây là nhóm nhân lực đặc biệt như nhân lực c ho các cơ sở đào tạo (giáo viên, giảng viên), đội ngũ cán bộ công chức, các nhà khoa học, các nhà doanh nghiệp, nhân lực làm việc trong các khu công nghệ cao…Với lợi thế riêng có của vùng, đó là tập trung hầu hết các trường đại học lớn của cả nước, các viện nghiên cứu, các cơ quan

Xem tất cả 187 trang.

Ngày đăng: 25/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí